GIÁNG SINH

GIÁNG SINH

MÁNG CỎ VÀ VINH QUANG THIÊN QUỐC ….…Lm. PX Vũ Phan Long, ofm         02
HÔM NAY ĐẤNG CỨU ĐỘ ĐÃ ĐẾN …………….Lm. Carolô Hồ Bặc Xái              12
KHÁM PHÁ CỦA EMANUEL …….…….………….Lm   Mark Link, SJ                       26
LỄ GIÁNG SINH, Nữa đêm – C ……………………Lm   Ignatiô Hồ Thông 29
LỄ GIÁNG SINH, Rạng đông – C …………………Lm   Ignatiô Hồ Thông  41
YÊU THƯƠNG VÀ ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA …Lm   Ignatiô Trần Ngà                  46
LỄ GIÁNG SINH, Nữa đêm – C ……..….Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR       51
LỄ GIÁNG SINH, Ban ngày – C ……..…Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR        54
CHÚA TÌM GÌ NƠI TA……………………….Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền                       57
HAI NGHÌN NĂM TRƯỚC …..……………..Lm. Anphong Trần Đức Phương         60
CON TRẺ ĐANG GỎ CỬA …………………Lm. Nguyễn Hữu Thy                              64
VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI …Giêrônimô Nguyễn Văn Nội  69
TÔN VINH TÌNH THƯƠNG CỨU ĐỘ ….…Giêrônimô Nguyễn Văn Nội  72
GIÁNG SINH, LỄ CỦA TÌNH THƯƠNG  …Lm. Giuse Đinh Lập Liễm                       80
NGÔI LỜI ĐÃ HÓA THÀNH NHỤC THỂ ……R.  Veritas                                             92
NGÔI LỜI LÀ ÁNH SÁNG THẬT ………………Manna  …………………                           94
ĐẤNG CỨU THẾ ĐÃ RA ĐỜI ………..……..Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm  98
LỄ GIÁNG SINH – C …………………….……Gp. Vĩnh Long ………  từ  109 đến 130
 
 
MÁNG CỎ VÀ VINH QUANG THIÊN QUỐC
Lm PX Vũ Phan Long, ofm 
I. NGỮ CẢNH
Trong ch. 1–2 của TM Lc, tức phần mở của TM này, Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả được đặt song song thành hai cánh:

  1. Cánh các cuộc loan báo (1,5-56):
  1. Loan báo về Gioan (1,5-25);
  2. Loan báo về Đức Giêsu (1,26-38);
  1. Cánh các cuộc chào đời (1,58– 2,52):
  1. Gioan sinh ra (1,58-80);
  2. Đức Giêsu sinh ra (2,1-52).

Bản văn 2,1-20 là phần đầu trong khối bản văn nói  đền việc Đức Giêsu chào đời. 
 
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành ba phần:

  1. Hoàn cảnh chào đời của Đức Giêsu (2,1-5);
  2. Cuộc chào đời (2,6-7);
  3. Mạc khải về hài nhi và phản ứng lại với mạc khải (2,8-20):
  1. Mạc khải về hài nhi sơ sinh cho các mục  đồng (cc. 8-14),
  2. Phản ứng lại mạc khải (cc. 14-20). 
  1. Đức Giêsu chịu phép cắt bì (2,21).  

 
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
– Xêda Âugúttô (1): Gaiô Ốttaviô sinh ngày 2/9/63 trước CG; khi Giuliô Xêda bị ám sát vào tháng 3/44 thì ông đang ở bên Tây-ban-nha. Nhờ sự hỗ trợ của ông chú, ông được coi là người thừa kế chính, rồi vào năm 43, ông được nhận là con nuôi của Giuliô Xêda, với tên là Gaiô Giuliô Xêda Ốttavianô. Từ ngày 27/11/43 tr CG, Rôma được cai trị bởi một tam đầu chế là Ốttavianô, Máccô Antôniô và M. Lêpiđô. Vào ngày 1/1/43, Xêda được nhìn nhận là thần, nên Ốttavianô trở thành divi filius (con thần). Chế độ tam đầu chấm dứt vào năm 36, và Ốttavianô đã đánh bại Clêôpatra và Máccô Antôniô tại Actium năm 31. Năm 30, ông được nhìn nhận là chúa tể Ai-cập và cũng được coi là hoàng đế. Nhưng danh hiệu imperator (hoàng đế) chỉ được phê chuẩn vào năm 29. Chỉ vào ngày 16/1/27, thì Nghị viện Rôma mới trao tặng ông danh hiệu Augúttô, tức nhìn nhận vị trí tối cao của ông trên đất nước cộng hòa vừa được khôi phục. Ông qua đời năm 14 sau CG. Con rể là Tibêriô lên ngôi, cai trị từ năm 14-37 (x. 3,1).
 
– khắp cả  thiên hạ (1): Đây là lối nói thậm xưng để chỉ đế quốc. Trong thực tế, không có sử gia nào ghi lại là có một cuộc kiểm tra dân số ở mức độ này vào thời Hêrôđê Cả (37-4 tr CG).
 
– lên thành Bêlem (4): Vì Bêlem cao hơn mặt biển khoảng 800m, nói “đi lên Bêlem” từ phía bắc Galilê là có thể hiểu được, Nadarét cao hơn mặt biển khoảng 560m. Đường đi từ Nadarét đến Bêlem dài khoảng 120 cs.
 
– thành vua Đavít (4): Cựu Ước nói Đavít “là con một người Épratha ở Bêlem thuộc Giuđa” (1 Sm 17,12) và là con của “Giesê, người Bêlem” (1 Sm 17,58). Bêlem (x. Tl 17,7-9; 19,1-2; R 1,1-2; 1 Sm 17,12) là một phố nhỏ khoảng 5 cs về phía tây nam của Giêrusalem; Ga 7,42 gọi là một làng, kômê.
 
– người  đã đính hôn/thành hôn  với ông là bà Maria (5): Bằng vài từ ngữ rất chính xác, Lc mô tả tình cảnh của Đức Maria: bà là vợ trinh khiết của Giuse. Bà đang mang thai, và các độc giả biết tại sao rồi.
 
– con trai đầu lòng (7): Prôtotokos, “con trai đầu lòng”, không nhất thiết hàm ý “con đầu lòng” của nhiều con. Điều tác giả muốn nói ở đây là không có người con nào của Đức Maria đến trước Đức Giêsu. Lc đã nêu bật sự trinh khiết của Đức Maria (1,27.34), ngài sẽ tỏ ra rất dè dặt khi đề cập đến truyền thống các anh em của Đức Giêsu (ngài chỉ nhắc đến ở 8,19-20; Cv 1,14 và tránh nói đến ở 4,22; Cv 12,17; 15,13; 21,18). Ta biết có những bản văn Do-thái nói đến một phụ nữ đã chết khi sinh đứa con “đầu lòng” (xem tấm bia mộ của bà Arsinoê, năm 5 tr CG, tại Leontopolis bên Ai-cập). Ghi nhận như thế, Lc không nhắm đến quyền trưởng nam để hưởng gia tài thiên sai cho bằng phẩm chất người hiến thánh (x. 2,23; Xh 13,2; 34,19).
 
– lấy tã  bọc con (7): Câu này cho thấy Đức Maria chăm sóc con như bất cứ người phụ nữ nào ở Paléttina (x. Kn 7,4; Ed 16,4), chứ không muốn nói đến sự nghèo túng hay cuộc chào đời thấp hèn của Đấng Mêsia.
– máng cỏ (7): Có thể Maria đã sinh con tại một cái chái sau quán trọ vì ở đấy có chỗ cho lừa qua đêm và có máng đựng cỏ cho lừa ăn đêm. Cũng có thể đây là một cái ràn. Bản văn Lc không nói tới một con vật nào. Sau này truyền thống đã dựa theo Is 1,3 mà đưa vào. Còn sinh trong một cái “hang”? Truyền thống lấy từ Prot. Jas. 18,1; có trong Giustinô, Dial. 78 và Origiênê, Contra Celsum 1,51). Thánh Phanxicô Assisi (1182-1226) đã tận dụng và phổ biến truyền thống này khi lập ra máng cỏ tại Greccio năm 1223.
 
– không tìm  được chỗ trong nhà trọ (7): dịch sát “không có chỗ cho ông bà trong nhà trọ”. Hẳn là Maria và Giuse đã đi tìm chỗ trú qua đêm nơi một cái lán, chung quanh có vách và chỉ có một lối ra vào. Dường như giọng văn có chút chua xót.
 
– những người chăn chiên (8): Phải chăng nhắc đến họ vì họ có liên hệ với Đavít, xưa kia chăn chiên tại Bêlem (1 Sm 16,11; 17,15; 2 Sm 7,8)? Không chắc. Điều rõ hơn, đó là những người chăn chiên là những người nghèo. Các kinh sư rất nghiêm khắc với người chăn chiên bởi vì do nghề này, họ xa cách với hội đường và không giữ luật lệ. Họ bị cấm vào Đền Thờ, không được làm chứng tại tòa án; họ bị coi như là bọn gian dối và trộm cắp. Đây lại chính là những kẻ “bé mọn” mà Thiên Chúa vui lòng mạc khải mầu nhiệm Người cho (x. Lc 10,21).
 
– sứ thần Chúa (9): Đây là một nhân vật huyền bí trong Cựu Ước (St 16; Tl 13; Xh 3,2–4,17; Tl 6,11-24). Nhưng lần này sứ thần Chúa tỏ mình ra với một vẻ siêu việt chưa từng có: chung quanh các mục đồng, vinh quang Chúa chói lòa, đây là vinh quang đã cho Ít-ra-en thấy sự hiện diện của Đức Chúa (Yhwh) trong Xuất hành (Xh 16,10…) và vào dịp cung hiến Đền thờ (1 V 8,11). Cũng giống như trong Cựu Ước, điều được loan báo bởi “sứ thần Chúa” sau đó lại được gán cho “Chúa” (x. c. 15). Và cuộc thần hiển thường có kèm theo lời mời tin tưởng (c. 10; x. St 15,1; 21,17; Tl 6,23…).
 
– Hôm nay (11): Lần đầu tiên trạng từ sêmeron, “hôm nay”, xuất hiện (x. 4,21; 5,26; 12.28; 13,32.33; 19,5.9; 22,34.61; 23,43. Từ này được dùng 12 lần trong Lc, 8 lần trong Mt). Từ này báo trước thời cánh chung đã được khai mạc.
 
– bình an dưới thế cho loài người Chúa thương (14): Eudokia là “ý muốn”, và cụm từ anthrôpoi eudokias có nghĩa là “những người được Thiên Chúa chiếu cố đến/sủng ái”.  
 
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
Biến cố được kể ra ở đây có những nét tương phản nổi bật. Về cuộc chào đời của Đức Giêsu, bản văn nói đến bằng những câu ngắn ngủi và đơn giản, khiến độc giả hiểu là tự nó, cuộc chào đời này không có gì đặc biệt; nó được đặt vào trong dòng lưu chuyển quen thuộc của thế giới. Chỉ nhờ thiên sứ của Thiên Chúa, hiện ra trong ánh hào quang chói lọi của thiên quốc, chuyện vừa xảy ra mới được loan báo cho các mục đồng. Đấng Cứu độ trần gian đã đến thế giới trong những hoàn cảnh tầm thường. Nét tương phản này thúc đẩy độc giả suy nghĩ sâu xa hơn. Biến cố này đưa người ta đến chỗ ca ngợi Thiên Chúa. 
 
* Hoàn cảnh chào đời của Đức Giêsu (1-5)
Thế  giới vẫn đang đi theo dòng lưu chuyển bình thường của nó. Ngay ở đầu, hoàng đế Âugúttô được nêu tên; ông là vị chúa tể thống trị thế giới Địa Trung Hải lúc đó, trong đó có Paléttina. Ông đã bắt người ta chúc mừng ông như là ông hoàng thái bình, vị cứu tinh của các cuộc khởi nghĩa và các cuộc nội chiến, cũng như đảm bảo cho có trật tự và sự thoải mái. Ở đây ông được giới thiệu danh tánh và một công việc tiêu biểu của một vị quân vương: ông cho kiểm tra dân số, hẳn là để có thể thu thuế cho thật cao. Việc nhắc đến hoàng đế Xêda Âugúttô hẳn là một có một vai trò lịch sử, nhưng cũng còn có một vai trò biểu tượng nữa: hoàng đế Rôma thần thánh (Âugúttô) tương phản với Đấng Kitô Đức Chúa (c. 11); Xêda Âugúttô điều hành và Đấng Mêsia phải quy phục. Nhưng quyền chúa tể của Xêda ngoại giáo trên Hài Nhi Mêsia chỉ là tạm thời. Quyền chúa tể này sẽ bị vượt qua khi Đức Giêsu được tôn vinh sau Phục Sinh (Lc 24,36; x. Cv 2,36). Điều này, ngay lúc này các thiên thần đã công bố: Người là Đấng Cứu thế duy nhất, Đức Chúa duy nhất (c. 11), Đấng duy nhất có thể ban hòa bình cho loài người (c. 14).
 
Maria và Giuse quy phục cuộc kiểm tra dân số này. Chính việc kê khai tên tuổi đã khiến hai ông bà đi về thành Bêlem. Tác giả Lc nhấn mạnh rằng thành Bêlem là thành nguyên quán của vua Đavít và Giuse thuộc về nhà và gia tộc vua Đavít. Như thế chúng ta có một quy chiếu về lời hứa và niềm chờ mong Đấng Mêsia, có liên hệ với Bêlem và gia tộc vua Đavít (x. Mk 5,1). Maria đang mang thai do sự can thiệp của Thánh Thần. Ân ban vô song của Thiên Chúa cũng không  tránh cho Đức Maria khỏi những bất trắc của chuyến đi đường, xa gia đình dòng họ.  
 
* Cuộc chào  đời (6-7)
Ngay trong các thực tại tự nhiên và trong các tương quan giữa con người với nhau, thế giới vẫn đi theo dòng lưu chuyển của nó. Khi đến lúc sinh con, Maria đã sinh con trai. Bà phải quy phục tính tất yếu tự nhiên này. Bà không thể chọn thời gian cho mình, cũng không thể chờ đợi một hoàn cảnh tốt đẹp hơn. Cũng vì thế, chính bà phải bọc con trong các cái tã và đặt con nằm trong máng cỏ. Đức Giêsu đã khởi sự cuộc hành trình trần thế trong một cái máng cỏ. Mẹ Người và chính Người đã không tìm được những còn đường đã được nện cho bằng phẳng và những nơi trú ngụ đăng ký trước. Các ngài là những người nghèo, các ngài không có cao vọng gì; các ngài phải đi tìm và tìm ra chỗ của các ngài: các ngài bằng lòng với các sự vật của trần gian.  
 
* Mạc khải và phản ứng (8-20)
Ngược lại với tình cảnh này, ta thấy có ánh sáng huy hoàng của trời cao và vị sứ thần của Thiên Chúa xuất hiện. Vị này loan báo cho các mục đồng biết chuyện gì đã xảy ra trong đêm, trong những hoàn cảnh tưởng là thông thường. Họ đang run rẩy khiếp sợ, nhưng một niềm vui lớn lao được loan báo cho họ. Sứ thần của Thiên Chúa luôn luôn là sứ thần của niềm vui (x. 1,14.28). Các mục đồng và toàn dân có lý để vui mừng: Đấng Cứu thế, Đức Kitô, Đức Chúa, đã sinh ra cho họ. Người là Đấng Mêsia được trông đợi từ bao đời, Đức Vua muôn đời của Israel, do Thiên Chúa ban. Người là Đức Chúa, nghĩa là Người có trong tay mọi quyền bính và sức mạnh. Chỉ có niềm vui mới tương ứng với sứ điệp đến từ Thiên Chúa như thế. Nhưng dấu chỉ lại thuộc về hoàn cảnh hiện tại: Đức Chúa nằm đó, một em bé được quấn tã, nằm trong một máng cỏ, trong nơi trú ngụ của bò lừa. Dấu chỉ là các mục đồng sẽ tìm được một em bé bình thường, với đặc điểm duy nhất là em sinh ra vì người nghèo.
 
Câu  đáp đầu tiên cho sứ điệp ấy đến từ cơ binh các thiên thần, các ngài ca hát ngợi khen Thiên Chúa. Các diễn tả ý nghĩa của cuộc chào đời đối với Thiên Chúa và đối với loài người. Thiên Chúa được tôn vinh bởi cuộc chào đời này: Người đã tôn vinh chính mình, Người đã làm cho người ta biết Người trong thần tính, trong tình yêu và trong lòng từ bi thương xót của Người. Biến cố Đấng Cứu thế đến phải được đón nhận như là một sáng kiến của tình yêu và lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Cùng với Đấng Cứu thế, loài người cũng được ban cho có hòa bình và ơn cứu độ trọn vẹn. Đây là hoà bình được đặt nền tảng trên sự vui lòng của Thiên Chúa, trên sự hạ cố nhân ái của Người.
 
Các mục đồng đi theo sự hướng dẫn của dấu chỉ; họ thấy hài nhi và truyền đạt lại sứ  điệp. Tất cả những ai nghe biết đều ngạc nhiên. Sự kinh ngạc là một khởi đầu tốt. Nhưng nếu chỉ dừng lại với sự kinh ngạc, người ta không đi xa được. Đến đây phản ứng của Đức Maria được nêu bật. Bà ghi nhớ và suy niệm mọi sự trong lòng: đây là một sự suy niệm kéo dài, bởi vì những gì bà thấy thì chưa rõ ràng; bà cần phải cố gắng tìm hiểu. Còn các mục đồng thì vừa đi về vừa ca ngợi Thiên Chúa về tất cả những gì đã xảy ra.  
 
* Đức Giêsu chịu phép cắt bì (21)
Ở c. 21, tác giả tường thuật việc cắt bì và đặt tên cho Đức Giêsu. Như Gioan, Đức Giêsu được ghi dấu giao ước (x. St 17,11) và tháp nhập vào dân tộc Ít-ra-en (x. Gs 5,2-9). Người được đặt cho cái tên mà sứ thần đã đặt là Giêsu: tác giả nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì. 
 
+ Kết luận
Những gì vừa được kể không phải là chuyện trao đổi qua lại trong cách xử thế của loài người với nhau, cũng không phải là sự cảm động trước một trẻ sơ sinh, không có một cái nôi cho xứng hợp. Ở đây, chúng ta được loan báo về hành động từ bi thương xót của Thiên Chúa: Đấng Cứu thế đã giáng sinh, Đức Chúa đã đang hiện diện. Thiên Chúa đã vĩnh viễn nắm lấy hoàn cảnh của chúng ta trong tay. Đấng Cứu thế đã đi vào cuộc sống nghèo hèn của chúng ta, nhận lấy thân phận chúng ta, trong tư cách là một hài nhi được quấn tã. Người đã ở bên cạnh chúng ta và cùng đi với chúng ta. Hẳn là chúng ta sẽ phải liện tục tự hỏi: Ơn cứu độ này là loại cứu độ nào đây? Nhưng lòng chúng ta đã chan hòa niềm vui vì biết rằng Đức Chúa đã có mặt. 
 
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Thiên Chúa dùng những nguyên nhân phụ thuộc, có vẻ  tình cờ, để thực hiện các chương trình của Người. Một cuộc kiểm tra dân số lại làm cho các sấm ngôn được thực hiện: Đấng Mêsia chào đời tại Bêlem. Chúa quan phòng luôn có trong tay toàn thời gian, các nơi chốn và các con người cũng như các biến cố. Chúa quan phòng tiên liệu mọi sự, nhưng không phải lúc nào cũng theo như nguyện ước của chúng ta.
 
2. Trái tim của chúng ta đôi khi cũng bề bộn, ngổn ngang, như  một cái hàng quán Bêlem dịp ấy. Vì thế, chúng ta không đón được Đức Kitô khi Người đến viếng thăm mà ban ơn cứu độ. Trái tim chúng ta đã chật cứng với những khoái lạc, với các toan tính cho công việc làm ăn, với mối lo toan quá đáng cho miếng cơm mang áo, hay có khi chỉ là sự vô tâm lãnh đạm. Đức Kitô đến như một kẻ quấy rối, và chúng ta không thích.
 
3. Những người  đầu tiên được mời đi tôn kính Hài Nhi trong máng cỏ là các mục đồng, những kẻ  bị người đương thời khinh bỉ, do họ sống dễ dãi. Ngày hôm nay, tất cả chúng ta cũng đang được mời tiến đến bên máng cỏ cùng với những người nghèo hèn ấy, bất kể chúng ta thế nào, nhiều công trạng hay nhiều tội lỗi. Đức Giêsu đã đến cho tất cả mọi người, và đặc biệt  cho những người nghèo nhất và những người nhỏ bế nhất. Loài người xác tín rằng sự dữ chỉ có thể bị tiêu diệt bởi tiền bạc, bởi sự lừa dối hay bởi tham nhũng. Tin Mừng của lễ Giáng Sinh đêm nay cho chúng ta thấy một vì Thiên Chúa chọn sự nghèo khó và yếu đuối, và dạy chúng ta loại trừ mộtkiểu suy nghĩ đựa trên quyền lực hoặc tiền bạc.
 
4. Đức Maria không thụ động chấp nhận tất cả những gì xảy ra; bà tìm hiểu. Bà không tức khắc cung cấp lời giải thích biến cố, nhưng đào sâu biến cố cách kiên nhẫn và không áp đảo, ép buộc. Có một thứ bất bạo động thiêng liêng và tôn giáo, biết tránh việc lược đồ hóa ép uổng, và để cho các sự việc cứ như thế và chờ đợi được hiểu biết hơn. Bà phải cố gắng tiếp mà tìm hiểu.
 
5. Thánh Amêđê  (1108-1159), là đan sĩ Xitô và cũng là  giám mục, đã nói trong một bài giảng về Đức Maria: «Mẹ thấy là Con Thiên Chúa đã được trao cho Mẹ; Mẹ vui mừng khi thấy ơn cứu độ thế giới được ký thác cho mình. Mẹ nghe Thiên Chúa nói tận đáy lòng Mẹ: ‘Ta đã chọn con giữa tất cả những gì Ta đã tạo thành; Ta đã chúc phúc cho con giữa mọi người phụ nữ; Ta đã trao Con Ta vào tay con; Ta đã ký thác Con Một của Ta cho con. Đừng ngại cho bú mớm Đấng mà con đã sinh ra, hoặc nuôi dưỡng Đấng mà con đã cho chào đời. Con hãy biết rằng Người không chỉ là Thiên Chúa, mà còn là con của con. Người là Con của Ta và là con của con, Con của Ta do thần tính, con của con do nhân tính Người đã nhận lấy nơi con’. Đức Maria đã đáp lại lời mời gọi này với biết bao tâm tình tha thiết và nhiệt thành, với biết bao khiêm nhường và tôn kính, với biết bao tình yêu và tận tụy. Loài người không biết được điều này, nhưng Thiên Chúa biết, vì Người dò thấu tận tâm can (Tv 7,10)… Phúc thay Đấng đã được giao cho nhiệm vụ nuôi dưỡng Đấng che chở và nuôi nấng mọi sự, bồng bế Đấng nâng đỡ vũ trụ» (Bài giảng thứ 4 về Đức Maria; Pain Cýteaux alt.; x. SC 72, tr. 129t). 
 
Lm PX Vũ Phan Long, ofm 
 
 
HÔM NAY ĐẤNG CỨU ĐỘ ĐÃ ĐẾN VỚI CHÚNG TA
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Trong ngày lễ Giáng sinh, chúng ta vui mừng vì Thiên Chúa đã thực hiện lời Ngài đã hứa với nhân loại. Từ ngàn xưa Thiên Chúa đã muốn cho mọi người trở thành con của Ngài. Vì thế, khi đến thời thuận tiện, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Người Con của Ngài, Đấng “từ nguyên thuỷ vẫn ở với Thiên Chúa”, là “ánh sáng bởi ánh sáng”. Hôm nay ánh sáng đã đến với nhân loại để soi sáng cho nhân loại. Chúng ta hãy hân hoan đón nhận ánh sáng của Ngài.
 
II. GỢI Ý SÁM HỐI

  • Thánh Gioan đã nói “Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng thân nhân của Ngài đã không tiếp đón Ngài”. Phải chăng lời này cũng nói về chúng ta?
  • Chúa Giêsu là ánh sáng ân sủng. Nhưng lắm khi chúng ta chuộng bóng tối tội lỗi hơn ánh sáng Chúa Giêsu.
  • Chúa Giêsu là Lời của Thiên Chúa. Chúng ta có quen lắng nghe Lời Ngài không?

 
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Is 52,7-10
Đang khi dân Do Thái bị lưu đày, ngôn sứ Isaia (đệ nhị) đã được soi sáng để thấy trước một vị sứ giả của Thiên Chúa loan báo cho dân một tương lai bình an, hạnh phúc và được cứu độ: “Đẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin cứu độ”.
Hôm nay lời tiên tri đó được thực hiện hoàn toàn nơi Chúa Giêsu.
 
2. Đáp ca: Tv 97
Tv này diễn tả cùng những ý tưởng hân hoan như bài đọc I: “Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới… Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính của Ngài trước mặt chư dân”.
 
3. Bài đọc II: Dt 1,1-6
Tác giả thư Do Thái nhìn lại lịch sử cứu độ: “Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con”.
Và tác giả cũng trình bày một tổng luận kitô học về Chúa Giêsu: Ngài là Con Thiên Chúa, bởi Ngài mà vũ trụ được tác thành, Ngài quét sạch tội lỗi loài người, rồi Ngài lên ngự bên hữu Thiên Chúa…
4. Tin Mừng: Ga 1,1-18
Đây là bài tiền ngôn nổi tiếng của quyển Tin Mừng thứ tư. Bài tiền ngôn này cô đọng tất cả những chủ đề kitô học:
Chúa Giêsu Kitô là Con của Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa.
Ngài mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa: Ngài là Lời của Thiên Chúa, chỉ một mình Ngài biết rõ Thiên Chúa, qua Ngài chúng ta thấy được vinh quang của Chúa Cha.
Ngài có vai trò quan trọng trong công trình sáng tạo.
Ngài đã nhập thể, trở thành xác thịt và ơ giữa loài người.
Nhưng thân nhân của Ngài đã không tiếp nhận Ngài.
 
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Niềm vui lễ Giáng sinh
“Đời là bể khổ”. Bởi đó rất nhiều người bi quan, buồn thảm. Ai cũng khao khát niềm vui. Hôm nay, một tin vui rất lớn được loan báo cho chúng ta: Con Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Thế nhưng, như bài Tin Mừng hôm nay nói, “Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng thân nhân của Ngài đã không tiếp nhận Ngài”. Nghĩa là không phải ai, kể cả những người thân của Chúa Giêsu, cũng đều vui.
 
Muốn có được niềm vui này, ta phải biết đón nhận Ngài bằng đức tin: đừng dừng lại ở những trang hoàng đẹp mắt, những bài thánh ca du dương, những hang đá máng cỏ thơ mộng. Hãy dừng lại trước Hài nhi Giêsu, và dùng cặp mắt đức tin để chiêm ngưỡng và suy niệm trong lòng. Rồi từ đó ta sẽ nhận ra:

  1. Tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đối với chúng ta, đến nỗi Ngài đã ban Con Một yêu dấu của Ngài cho chúng ta;
  2. Lời Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở thành con Thiên Chúa như Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu chia xẻ chính sự sống thần linh của Thiên Chúa.

Và niềm vui ấy cũng phải được mang đi để chia xẻ cho những người khác. Chúng ta hãy làm những sứ giả của Tin Mừng: “Đẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin cứu độ”.
 
2. Người thân không đón nhận
Thánh Gioan đã nói lên một sự thật phũ phàng: “Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng người thân của Ngài đã không đón nhận Ngài”. Tại sao họ không đón nhận Ngài? Vì họ không nhìn ra Ngài. Tại sao họ không nhìn ra Ngài? Vì họ tưởng Ngài sẽ đến trong dáng vẻ quyền quý cao sang, thế mà Ngài lại đến trong hình dáng quá tầm thường của một đứa bé con nhà nghèo. Tình huống bi đát này, Chúa Giêsu không chỉ gặp một lần khi mới sinh ra ở Bêlem, mà tái diễn nhiều lần nữa trong suốt đời Ngài… Và có thể chính hôm nay nữa, bởi chính chúng ta nữa… Lúc chúng ta ở trong nhà thờ, Chúa đến với chúng ta qua tấm bánh trắng đã biến thành Mình Thánh Ngài thì dĩ nhiên chúng ta nhận ra Ngài. Nhưng khi rời nhà thờ trở về nhà, nếu Chúa đến với chúng ta trong những người hàng xóm, liệu chúng ta có nhìn ra Ngài và niềm nở tiếp đón không?
 
Khi chúng ta cầu nguyện, Chúa đến với chúng ta bằng những ơn soi sáng, an ủi, nâng đỡ thì chúng ta nhìn ra và vui vẻ đón nhận Ngài. Nhưng trở lại cuộc sống, nếu Chúa đến với chúng ta bằng những trách nhiệm, những gánh nặng, những thử thách, những khổ đau… Chúng ta có còn nhìn ra Ngài và đón nhận Ngài nữa không?
 
3. Quà tặng đêm Noen
Một đôi vợ chồng trẻ. Gim và Đêla, tuy nghèo tiền của nhưng rất giàu tình yêu. Giáng Sinh sắp tới, Đêla tự hỏi phải tặng Gim món quà gì đây. Nàng muốn tặng chàng sợi dây cho chiếc đồng hồ của chàng. Nhưng nàng không có đủ tiến để mua. Vì thế, nàng nảy sinh một sáng kiến: Nàng có bộ tóc dài mượt mà, óng ả, nàng yêu quí và rất hãnh diện vì nó. Nhưng nàng quyết định cắt bộ tóc đi, và đem bán để mua cho Gim sợi dây đồng hồ.
 
Hôm áp lễ Giáng sinh, từ phố vế, nàng cầm trong tay một chiếc hộp rất đẹp dựng sợi dây đồng hồ mạ vàng mà nàng vừa sắm được bằng mái tóc của mình. Bỗng nhiên Đêla cảm thấy lo lắng. Nàng biết Gim rất quí mái tóc dài của nàng. Nàng tự hỏi không biết Gim có buồn vì nàng cắt và bán nó đi hay không.
 
Về đến nhà, Đêla mở cửa và thấy Gim đang đợi nàng. Tay chàng cầm một cái hộp thật đẹp, đựng món quà chàng mới mua để tặng nàng. Khi nhìn thấy mái tóc ngắn của vợ, Gim như muốn khóc, nhưng chàng không nói gì cả. Cố trấn tĩnh, chàng trao cho nàng chiếc hộp xinh xắn. Mở hộp ra, Đêla rất đỗi bàng hoàng. Trong hộp là một bộ lược chải tóc bằng xà cừ rất đẹp. Còn chàng, khi mở món quà vừa nhận được từ tay vợ, Gim cũng ngỡ ngàng không kém: Chính lúc đó Đêla mới nhận ra rằng Gim đã bán chiếc đồng hồ vàng, món đồ quí nhất của anh, để mua lược chải tóc cho nàng. Phút chốc cả hai đều hiểu rằng họ đã tặng nhau tất cả những gì quí giá nhất.
|
Nếu có một bài học mà chúng ta có thể rút ra từ việc “Tặng quà” của đôi vợ chồng trẻ này, thì đó chính là: Khi trao ban cho kẻ khác, người ta lại tìm được chính bản thân và những gì cao quí nhất. Nghĩa là con người chỉ đạt được nhân cách sung mãn bằng sự trao ban vô vị lợi mà thôi.
 
Đó chính là sứ điệp chạy xuyên suốt Tin Mừng, nhất là trong mầu nhiệm Giáng Sinh: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Qua Con Một yêu dấu, Thiên Chúa muốn ban tặng chính Người cho chúng ta. Người không chỉ hài lòng với món quà vật chất mà Người đã ban tặng như vũ trụ bao la với muôn vàn phúc lộc trong đó, nhưng Người đã đích thân ở giữa nhân loại để chia sẻ cuộc sống con người: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và đã cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).

  • Hài nhi Giêsu chính là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao ban cho con người.
  • Hài nhi Giêsu chính là hiện thân sống động của một Thiên Chúa tình yêu.
  • Hài nhi Giêsu chính là sự tỏ bày tấm lòng vô cùng ưu ái của Thiên Chúa dành cho con người.

Giáng sinh là lễ của Tặng quà nhưng cũng còn là lễ của Tình yêu. Không phải những quà tặng đắt tiền mới có giá trị, mà chính là những món quà thắm đượm tình yêu. Một món quà dù nhỏ bé nhưng gói ghém tất cả tình cảm mến thương, sự trân trọng, lòng biết ơn, có khi cả sự ngưỡng mộ của mình dành cho người đón nhận, thì đó lại là món quà vô giá.
Có thể nói, một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban chính bản thân, trao ban không cần tính toán, không so đo hơn thiệt, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: “Ki tô hữu là người trao ban chính bản thân mình”. Hài nhi Giêsu sau này khi sắp trao ban mạng sống để cứu chuộc nhân loại đã thốt lên: “Không có tình yêu nào cao quí cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13)
 
Quà tặng cao đẹp nhất chúng ta dâng lên Hài nhi Giêsu trong đêm Giáng sinh chính là những nghĩa cử yêu thương chúng ta trao tặng cho anh em.

  • Chúng ta chỉ có thể lớn lên trong tình yêu Chúa khi chúng ta thực thi những nghĩa cử yêu thương.
  • Chúng ta chỉ sống đích thực khi chúng ta sống trọn vẹn cho tha nhân.

Lạy Chúa Hài Nhi, giá trị đích thực của con người chúng con hệ tại ở lòng quảng đại trao ban.
Xin cho chúng con cũng biết trao tặng những gì quí giá nhất cho anh em như Chúa đã trao tặng chính Chúa cho chúng con đêm nay. Amen (TP)
 
4. “Bình an dưới thế cho người thiện tâm”
Vào dịp Lễ Giáng sinh năm 1914, quân Anh và quân Đức đang đối đầu nhau. Binh sĩ ở dưới những giao thông hào đầy bùn và chuột. Nửa đêm, một người lính Anh cất lên một bản thánh ca. Chẳng bao lâu sau, tất cả các lính Anh cũng cất tiếng hòa ca. Mọi người đang hát say sưa thì một người hô lớn: “Im. Nghe xem có tiếng gì từ bên kia vọng lại”. Mọi người im lặng lắng nghe. Thì ra những người lính Đức bên kia chiến tuyến cũng đang hát thánh ca mừng Chúa ra đời. Một cái gì đó linh thiêng nối kết những kẻ thù ở hai bên chiến tuyến. Tất cả binh sĩ bỏ chiến hào chạy ùa tới nhau. Họ nắm tay nhau nhảy múa theo điệu hát. Họ chia cho nhau những điếu thuốc, những mẫu bánh. Chiến tranh biến đâu mất. Chỉ còn lại Hòa bình. Mọi người rất vui. Nhưng niềm vui không kéo dài lâu. Tiếng hát, tiếng cười ồn ào đến tai các vị chỉ huy. Các vị này lập tức ra lệnh chấm dứt tất cả, mọi người phải trở lại vị trí của mình. Thế là chiến tranh lại tiếp diễn!
|
Mỗi lần đến lễ Giáng sinh là người ta nghĩ đến Hòa Bình, bởi vì trong đêm Chúa Giáng sinh, các thiên thần đã hát “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Nhưng hòa bình không phải chỉ là không có chiến tranh, không chỉ là ngưng tiếng súng. Hòa bình là hoa trái sinh ra từ những tâm hồn thiện tâm. Nếu tâm không thiện thì không có hòa bình thật. Hòa bình bền vững không phải do thỏa hiệp của những bên đã từng chống đối nhau, mà là ơn ban của Chúa. Trong lễ Giáng sinh, Chúa ban ơn hòa bình cho ta, đề rồi ta cũng mang ơn hòa bình ấy ban cho kẻ khác. (FM)
 
5. Sứ điệp của lễ Giáng sinh
Nhiều khi trong đời, ta nôn nóng đón chờ một ngày trọng đại. Nhưng khi ngày đó đến thì ta lại thất vọng chán chường.
Ngày lễ Giáng sinh có thể là một ngày như thế đối với một số người. Nhiều ngày trước, họ nôn nao chờ đợi, mong sẽ có được những điều đặc biệt trong ngày lễ. Rồi lễ Giáng sinh đến. Nhìn lên trời chẳng thấy thiên thần nào hiện ra. Nghe ngóng chung quanh cũng chẳng có tiếng hát thiên thần. Thì ra cũng là một ngày như mọi ngày thôi. Họ chua chát kết luận: Giáng sinh chỉ là lễ cho trẻ con thôi! Thực ra Giáng sinh là một ngày rất khác biệt. Mặc dù không có dấu lạ nào trên trời, nhưng thực sự có rất nhiều dấu lạ, ít ra là đối với những ai biết nhìn. Này nhé, ngày này có nhiều ánh sáng hơn, nhiều ấm áp hơn, nhiều hy vọng hơn. Trong lễ Giáng sinh, người ta cảm thấy thân thiện nhau hơn; lòng người ta vui vẻ và cởi mở hơn nên gặp nhau thì người ta chúc, người ta cười; người ta nghĩ đến những điều tốt đẹp, quên đi những ý nghĩ đen tối, u sầu… Có thể nói trong dịp Lễ Giáng sinh, chúng ta cảm thấy Nước Thiên Chúa là một cái gì cụ thể và gần gũi. Và nếu ai biết mở lòng mình ra thì còn có thể cảm thấy như chạm được chính Thiên Chúa, như tâm sự sau đây của nhà soạn kịch Hugh Leonard: “Tôi không biết Thiên Chúa là ai, nhưng tôi biết Ngài ở đâu. Ngài bao quanh tôi suốt năm, nhưng trong dịp lễ Giáng Sinh Ngài đến và chạm vào sườn tôi”.
 
Trong lễ Giáng sinh, chúng ta cảm nghiệm được sự gần gũi, sự ấm áp và sự tốt lành của Thiên Chúa. Chúng ta thấy mình không cô độc, thấy rằng đời mình có ý nghĩa, nhận ra rằng có một Đấng coi sóc mình và hướng dẫn mình, biết mình được yêu thương, và tâm hồn rất bình an. Đó chính là sứ điệp của lễ Giáng sinh. Hãy mở rộng lòng ra đón nhận sứ điệp hạnh phúc ấy, và hãy tiếp tục sống sứ điệp ấy mãi… (FM)
 
6. Ánh Sáng Chúa Giáng sinh
Ở Bắc bán cầu, Lễ Giáng sinh diễn ra vào lúc trời tối nhất. Đây là thời điểm thuận lợi để chúng ta ngưỡng mộ giá trị của ánh sáng. Bởi vậy Phụng vụ lễ này nói nhiều tới ánh sáng. Chẳng hạn như bài đọc I Lễ Đêm: “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng” (Is 9,1)
Mẹ Têrêsa kể rằng lúc ở Melbourne, Australia, một hôm Mẹ đến thăm một ông già sống trong một tầng hầm dơ bẩn lộn xộn. Trong phòng ông không có một chút ánh sáng. Trước đây chẳng ai đến thăm ông. Bắt đầu, Mẹ Têrêsa quét dọn căn phòng cho sạch sẽ ngăn nắp lại. Nhưng ông cự nự: “Không được đụng đến. Cứ để yên cho tôi”. Mẹ Têrêsa mặc kệ, cứ tiếp tục. Vừa quét dọn, Mẹ vừa gợi chuyện nói với ông. Rồi Mẹ tìm thấy một chiếc đèn dầu nằm ẩn dưới một đống đồ đạc ngổn ngang. Lau chùi xong, Mẹ thấy cây đèn rất đẹp.

  • Ông có một cây đèn rất đẹp. Sao bấy lâu nay ông không thắp lên?
  • Thắp lên làm gì? Có ai đến thăm tôi đâu.
  • Vậy nếu nữ tu của tôi đến thăm ông thì ông có hứa sẽ thắp đèn lên không?
  • Xin hứa. Nếu tôi nghe có tiếng ai đến thăm thì tôi sẽ thắp đèn lên.

Sau đó, hai nữ tu của Mẹ Têrêsa đều đặn tới thăm ông già. Mỗi lần họ đến thì ông già thắp đèn lên. Tình hình ngày càng tốt đẹp hơn. Một hôm, ông nói: “Các Sơ ạ. Từ hôm nay tôi có thể tự dọn dẹp phòng được rồi. Nhưng xin làm ơn nói lại với bà nữ tu đầu tiên là ngọn đèn bà đã thắp lên trong đời tôi đến nay vẫn còn cháy sáng”.
 
Có thể nói rằng ngọn đèn đã cứu ông già ấy. Nhưng thực ra thì không phải ngọn đèn, mà là điều mà ngọn đèn ấy tượng trưng, tức là lòng tốt của Mẹ Têrêsa và các nữ tu của Mẹ.
Chúng ta đang sống trong một thế giới tối tăm vì chiến tranh, bạo lực, đau khổ v.v… Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm được sự tối tăm trong đời mình và trong gia đình mình: buồn phiền, thất vọng, bệnh tật, tội lỗi, cô đơn, chán chường v.v…
May thay ánh sáng Chúa Giáng sinh đã thắp lên trong thế giới vẫn còn cháy sáng. Ánh sáng ấy không chỉ loé lên ở Bêlem một lần rồi tắt ngúm. Nó vẫn còn chiếu sáng giữa những tàn phá, thảm họa, biến động… Đó là một thứ ánh sáng bền vững không bóng tối nào lấn át được. Nó vẫn chiếu sáng cho tất cả những ai tin Ngài và theo Ngài. Suốt 2000 năm qua, những lời Ngài dạy đã ảnh hưởng đến nhân loại hơn tất cả mọi bậc tôn sư nào khác. Những việc Ngài làm còn ảnh hưởng mạnh hơn nữa. Biết bao người từ chốn tối tăm đã tìm đến với Ngài và ra đi trong ngập tràn ánh sáng. Lòng nhân ái của Ngài vẫn tiếp tục chiếu sáng thế giới.
 
Mỗi người chúng ta phải là nguồn sáng cho thế giới tối tăm này. Nhưng nếu đời ta không là đèn sáng thì làm sao ta chiếu sáng cho người khác được. Sống trong ánh sáng thật là hạnh phúc. Nhưng còn hạnh phúc hơn khi ta là nguồn sáng cho người khác. Chúa đã gọi ta ra khỏi tối tăm bước vào ánh sáng, thì ta phải sống như là con cái của ánh sáng. Hiệu quả của ánh sáng được thấy rõ nhất trong một tấm lòng nhân ái, một cuộc sống chính trực, chân thành. (FM)
 
7. Mảnh suy tư

  • Thánh Giuse và Mẹ Maria lên đường đi Bêlem.
    Khi các ngài tới đó thì đã đến giờ Đức Maria mãn nguyệt khai hoa. Và Mẹ đã hạ sinh con trai đầu lòng.
  • Tất cả chúng ta cũng lên đường đi Bêlem nơi mà chúng ta hy vọng sẽ được sinh ra.
  • Tôi biết rằng chúng ta đã một lần được sinh ra.
    Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa được sinh ra theo nghĩa là bản ngã thực sự và tròn đầy của chúng ta vẫn chưa nhìn thấy ánh sáng thật.

Khi chúng ta được sinh ra lần thứ hai thì tất cả mọi ơn mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta như những hạt giống sẽ nẩy mầm và sinh hoa trái. Mục tiêu tối hậu của chúng ta là Bêlem trên trời, nơi mà chúng ta sẽ được thấy Chúa mặt đối mặt. (FM)
 
8. Bài giảng của Thánh Aerel de Rievaux (+ 1167)
“Hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít” (x. Lc 2,11-12). Thành của vua Đavít tức là thành Bêlem. Vậy chúng ta hãy chạy đến đấy, cũng như các mục tử xưa khi nghe tin này. Và chúng ta hãy đem ra thực hành điều mà chúng ta vẫn thường hát trong ngày lễ này: “Họ chạy đến Bêlem, vừa đi vừa hát mừng vinh quang Thiên Chúa” (x. Lc 2,15.20) Và thiên thần nói: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ” (x. Lc 2,12-13). Tôi muốn nói với các bạn điều này: các bạn phải yêu thương. Các bạn kính sợ các thiên thần, nhưng các bạn hãy yêu thương trẻ nhỏ; các bạn kính sợ Chúa, nhưng các bạn hãy yêu thương đứa trẻ bọc trong khăn này; các bạn kính sợ Đấng ngự trên trời, nhưng các bạn hãy yêu thương Đấng nằm trong máng cỏ.
 
Các mục tử đã nhận ra Chúa nhờ dấu nào? “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Trẻ đó chính là Đấng Cứu Độ, trẻ đó chính là Đức Kitô, trẻ đó chính là Đức Chúa. Thế nhưng “bọc tã nằm trong máng cỏ” có gì đặc biệt đâu? Những trẻ sơ sinh khác cũng bọc tã vậy! Thưa có điều đặc biệt chứ, miễn là chúng ta hiểu được. Chúng ta sẽ hiểu không phải chỉ nhờ được báo tin, mà còn nếu trong lòng chúng ta có ánh sáng đã xuất hiện cùng các thiên thần. Thiên thần báo tin Chúa giáng sinh đã xuất hiện với ánh sáng bao phủ chung quanh, đó là nhằm dạy chúng ta rằng chỉ những ai có ánh sáng siêu nhiên trong lòng thì mới nghe được lời báo tin ấy.
 
Người ta có thể nói rất nhiều về dấu chỉ này, nhưng vì thời giờ qua nhanh nên tôi chỉ muốn nói ngắn gọn. Tên Bêlem có nghĩa là “nhà bánh”. Đó chính là Giáo Hội, nơi phân phát bánh thật là Mình Thánh Đức Kitô. Còn máng cỏ trong hang đá Bêlem chính là Bàn thờ trong Giáo Hội. Nơi đây nuôi dưỡng những người thân thuộc gia đình Đức Kitô. Về chiếc bàn này, có lời viết: “Ngài dọn bàn cho tôi” (Tv 22,5). Trong máng cỏ này có Chúa Giêsu bọc tã. Tã này là dáng vẻ bề ngoài của các bí tích. Trong máng cỏ này, dưới hình dáng của bánh và rượu là chính mình thật và máu thật của Đức Kitô. Ở đó, chúng ta nhận ra chính bản thân Đức Kitô, nhưng được bọc trong tã, nghĩa là hiện diện một cách vô hình dưới các bí tích. Chúng ta không có dấu chỉ nào lớn lao và hiển nhiên về sự sinh ra của Đức Kitô ngoài việc mỗi ngày rước lấy mình máu Ngài trên bàn thờ. Ngài đã được sinh ra một lần bởi Đức Mẹ Đồng trinh, nhưng Ngài tự hiến mỗi ngày cho chúng ta. Vậy anh chị em thân mến, chúng ta hãy mau đến máng cỏ Chúa. Nhưng đừng quên làm hết sức có thể để chuẩn bị tâm hồn trước khi đến với Ngài. Chuẩn bị bằng cách kết hợp với các thiên thần mà làm cho mình có “một con tim thanh sạch, một lương tâm tốt lành và một đức tin chân thành” (x. 2 Cr 6,6). Chúng ta sẽ hát khen Chúa bằng tất cả cuộc đời và cách sống của chúng ta “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (x. Lc 2,14).
 
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Noen: biến cố kỳ diệu làm đảo lộn lịch sử nhân loại. Trong niềm vui mừng Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chúng ta cùng hoan hỷ nguyện xin:
1. Trong cảnh im lặng của ban đêm / một trẻ thơ chào đời để cứu ta / một người con được ban cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tu sĩ / đang sống đời chiêm niệm trong các đan viện / luôn tìm được niềm vui trong đời sống tận hiến của mình.
2. Trong bóng tối của chiến tranh / hận thù / khủng bố / một trẻ thơ chào đời để cứu ta / một người con được ban cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho thế giới hiện nay / được sống trong cảnh thái bình và thịnh vượng.
3. Trước sự dửng dưng lãnh đạm của thế gian / một trẻ thơ chào đời sống cứu ta / một người con được ban cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các trẻ em / luôn được chăm sóc chu đáo và bảo vệ an toàn.
4. Giữa biết bao mối bận tâm của chúng ta / trong cuộc sống thường ngày ồn ào náo nhiệt / một trẻ thơ chào đời để cứu ta / một người con được ban cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa thương ban ơn nâng đỡ / cho những ai trong giáo xứ chúng ta đang gặp thử thách gian truân.
 
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha từ bi nhân hậu, Chúa đã đến sai Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng thật đến chiếu soi hết thảy mọi người đang sống trên trần thế. Xin ban cho chúng con niềm vui và bình an khi mừng ngày giáng sinh của Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
 
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
 
KHÁM PHÁ CỦA EMMANUEL
Chủ đề: Giáng sinh chính là việc Thiên Chúa ngỏ lời với con người: “Ta yêu các con tới độ đã ban cho các con chính Con độc nhất của Ta. Các con cũng hãy yêu thương nhau như chính Ta đã yêu thương các con”.
Lm. Mark Link, S.J.
Ngày xưa, có một chú bé Phi Châu tên là Emmanuel. Chú ta luôn luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ chú hỏi thầy giáo: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?” Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: “Thú thực là thầy không biết”. Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong làng nhưng họ cũng chẳng biết. Thế là chú ta càng lúc càng tò mò thắc mắc hơn, chú dạo quanh khắp vùng dọ hỏi các bậc thức giả ở những làng khác: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi. Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin chắc có người biết điều ấy. Vì thế chú lên đường đến những quốc gia và cả những đại lục khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi, Emmanuel đến được một ngôi làng nọ, tên là Belem. Chú cố tìm chỗ nghỉ đêm trong các quán trọ, nhưng tất cả các quán đều đã đầy người. Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài thành để trú đêm. Cuối cùng quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra chiếc hang đá có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng ta đang mong chờ con”. Chú bé quá sửng sốt làm sao bà này biết tên chú? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy nói: “Đã từ lâu, con đã tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây hành trình của con kể như đã đến đích, đêm nay chính mắt con sẽ thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Ngài nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi ban cho thế gian Con Một của Ngài” (Ga 3: 16). Trái tim Emmanuel trào dâng niềm xúc động, chú vội quì gối xuống trước hài nhi và mừng rỡ bật khóc. Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất kỳ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được.
 
Và thế là Emmanuel ở đó vài ngày để giúp đỡ Đức Maria và thánh Giuse. Sau đó đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người “Tin Mừng” về thứ ngôn ngữ Chúa dùng, Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu. Lủi thủi một mình, Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: “Nếu tôi muốn kể cho mọi người biết Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức ngôn ngữ của tình yêu. Bởi vì đó chính là thứ tiếng duy nhất mà mọi người trên thế gian đều hiểu được” và kể từ ngày đó trở đi, Emmanuel bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của Thiên Chúa tức là ngôn ngữ của tình yêu.
 
Điều Emmanuel khám phá ra quả thật thú vị khi anh chị em nói với mọi người bằng thứ tiếng của tình yêu, thì họ cũng sẽ nói lại với anh chị em bằng thứ tiếng của tình yêu. Thế rồi, họ bỗng nhiên khám phá ra rằng nói bằng thứ tiếng ấy hơn biết bao nhiêu: và một khi họ đã khám phá ra điều ấy, họ sẽ không bao giờ trở lại nói thứ tiếng xưa kia của họ nữa. Vậy thì khi Emmanuel lên đường trở về nhà, chúng ta có thể noi theo bước chú, bởi vì chú đã để lại đàng sau chú một chuỗi phố phường làng mạc, nơi đó người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. Về sau, khi có người kể lại cho Emmanuel những điều đã xảy đến trong các phố xá làng mạc nơi chú đã đi qua, thì chú lại khám phá ra một điều kỳ diệu thứ hai đó là khi trao ban cho thế gian Con Một của Ngài, Thiên Chúa đã muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của tình yêu. Ngài biết rằng một khi người ta bắt đầu nói ngôn ngữ ấy, họ sẽ không còn trở lại nói thứ ngôn ngữ xưa kia của họ nữa. Ngài còn biết rằng một khi người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của Tình yêu thì những điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện khắp nơi. Mọi quốc gia sẽ chia sẻ mọi nguồn lợi, và tài năng cho nhau, mọi chủng tộc sẽ đối xử với nhau bằng lòng tôn kính, mọi gia đình sẽ hoà thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người sẽ bắt chặt tay nhau trong tình thân hữu. Lúc đó, lời hứa của Ngài qua miệng ngôn sứ Isaia sẽ thực sự được thể hiện: “Gốc Jesse nẩy sinh một chồi và từ rễ ấy một nụ bông hé nở. Thần Trí Chúa sẽ ngự xuống trên Ngài: Thần Trí khôn ngoan và thông hiểu. Bấy giờ sói sẽ là khách của chiên, báo sẽ nằm chung với trẻ nít, bò cái và gấu sẽ là láng giềng với nhau, lũ con của chúng sẽ nghỉ ngơi bên nhau; sư tử sẽ ăn cỏ giống như bò đực và trẻ nít sẽ vui đùa bên hang rắn độc…. sẽ không còn tai hoạ hay hoang tàn trên núi thánh của Ta, bởi vì mặt đất sẽ ngập tràn sự hiểu biết về Chúa khác nào nước phủ khắp đại dương” (Is 11: 1-2, 6-9)
Lạy Chúa, xin giúp tất cả chúng con đang hiện diện nơi đây khám phá ra điều mà chú bé Emmanuel đã tìm thấy. Xin giúp chúng con khám phá ra ngôn ngữ của tình yêu và biết dạy cho tha nhân thứ ngôn ngữ này. Xin cho chúng con góp phần hối thúc cho ngày ấy chóng đến, cái ngày mà mọi dân tộc đều biết chia xẻ cho nhau, mọi chủng tộc đều biết tương trợ lẫn nhau, mọi gia đình biết yêu mến nhau và mọi người đều biết thắt chặt tay nhau trong tình thân hữu.
 
Xin giúp chúng con góp phần hối thúc cho ngày ấy chóng đến, cái ngày mà “hoà bình thực sự ngự trị trên trái đất” và “thiện chí” toả lần đến mọi người.
Lm. Mark Link, S.J.
LỄ  ĐÊM GIÁNG SINH
Lm. Ignatiô Hồ Thông
Lễ  Giáng Sinh được ghi nhận vào thế  kỷ thứ tư. Thật ra, các giáo hội  Đông Phương đã cử hành Sinh Nhật của  Đức Giê-su rồi. Họ tưởng niệm vào ngày mồng 6 tháng giêng, dưới danh xưng lễ  “Hiển Linh” vừa biến cố các nhà đạo sĩ đến thờ lạy Hài Nhi vừa biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả, đồng thời tiệc cưới Ca-na, nghĩa là ba biến cố đầu tiên Chúa Giê-su tỏ mình ra công khai. Ấy vậy, cuộc tưởng niệm ba biến cố cùng một lúc nầy được đi trước bởi đêm canh thức cầu nguyện, suốt đêm đó cuộc Giáng Sinh của Đức Giê-su được gợi lên. Có thể đó là nguồn gốc của lễ Đêm Giáng Sinh của chúng ta.      
Is 9: 2-4, 6-7.       
Bài  đọc I là bài thơ tràn  đầy hy vọng của ngôn sứ  I-sai-a. Tám trăm năm trước đó, vị  ngôn sứ hân hoan loan báo cuộc đản sinh của Đấng Cứu Độ.      
Tt 2: 11-14.       
Trong đoạn trích thư gởi cho ông Ti-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở cho người môn đệ của mình đồng thời cũng là người bạn đồng hành của mình rằng lòng nhân từ của Thiên Chúa bắt đầu tỏ rạng ở nơi cuộc Giáng Sinh của Đức Giê-su, Ngài là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa của chúng ta, bởi vì lễ Giáng Sinh đã gieo mầm cho sự huy hoàng vinh quang ngày lễ Phục Sinh.      
Lc 2: 1-14.      
Với hoạt cảnh Giáng Sinh của Đức Giê-su, thánh Lu-ca dẫn chúng ta vào ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn: “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”.       
 
BÀI  ĐỌC I  Is 9: 2-4, 6-7      
Ngôn sứ I-sai-a sáng tác bài thơ nầy không bao lâu sau lời sấm về Đấng Em-ma-nu-en: ông gợi lên những biến cố đã xảy ra vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Ông ca ngợi một trẻ thơ thuộc hoàng tộc Đa-vít sắp chào đời, chắc hẳn trẻ thơ nầy là “Em-ma-nu-en” (“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”) trong lời sấm trước đây của ông (Is 7: 14).      
 
Hoàn cảnh lịch sử vào lúc đó không kém phần nghiêm trọng, nhưng không liên quan đến kinh thành Giê-ru-sa-lem. Phần đầu của bài thơ (không được trích dẫn ở đây) cho thấy đó là miền Ga-li-lê.       
 
Vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe xâm chiếm vương quốc phương Bắc và đã bắt đi lưu đày thành phần dân Ga-li-lê ưu tú đến Át-sua. Quân đội Át-sua có tập quán tàn bạo là móc mắt tù binh. Có lẽ ngôn sứ I-sai-a ám chỉ đến ở đây: “Đoàn người đang lần bước giữa tối tăm…” Dù thế nào, bóng tối biểu tượng nỗi khốn cùng.      
 
1.Miền Ga-li-lê sẽ thấy một ánh sáng huy hoàng(Is9:2-4).      
Nhưng nầy một niềm vui vỡ bờ. Đức Chúa giải thoát dân Ngài. Vị ngôn sứ phác họa bức tranh đầy màu sắc tươi vui: niềm tủi nhục thành vinh quang, tối tăm thành ánh sáng, cảnh đời nô lệ thành cuộc sống tự do. Bài thơ sánh ví những giờ phút hân hoan nầy với niềm hoan hĩ của nông dân trong mùa gặt và của chiến binh khi chia nhau chiến lợi phẩm. Cuối cùng và nhất là không còn dấu vết chiến tranh nữa: những đôi giày chiến và những quân phục nhuốm máu trở thành mồi cho lửa. Thiên hạ sẽ không cần những trang cụ chiến tranh nữa, vì Thiên Chúa can thiệp sẽ đảm bảo một nền hoà bình viên mãn.      
 
Để viện dẫn lý do cho lời sấm của mình, ngôn sứ I-sai-a nêu lên một tiền lệ lịch sử: Đức Chúa đã giải thoát dân Ga-li-lê rồi trong một giai đoạn đau thương khác của lịch sử của họ: khi họ gặp phải những quấy nhiễu của dân Ma-đi-an, Ngài giúp ông Ghít-ôn lập chiến công lẫy lừng đánh bại những kẻ áp bức.       
 
2. Một trẻ thơ chào  đời cho chúng ta  Is 9: 6-7.      
Nguyên do của niềm hân hoan và những viễn tượng tràn đầy hy vọng nầy, chính vì một trẻ thơ chào đời thuộc hoàng tộc Đa-vít.      
 
Phần tiếp theo của bài thơ cho thấy rằng xem ra đây không là một hoàng nhi chào đời nhưng một tân vương lên ngôi. Quả thật, qua những từ ngữ mà  vị ngôn sử sử dụng, chúng ta không thể không đọc thấy những ám chỉ đến nghi lễ phong vương. Rõ ràng việc phong vương được xem như một cuộc sinh ra lần thứ hai: ngày vua trở thành Thiên Tử: “Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa, Người phán bảo tôi rằng: Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2: 7).      
 
“Người con đó gánh vác quyền bính trên vai”. Người ta nghĩ đến nghi thức choàng áo long bào trên vai của vị tân vương – hay trao cho tân vương một vương trượng (cả hai biểu tượng nầy đều được chứng thực trong lễ phong vương). Xa hơn, vị ngôn sứ viết: “Nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa. Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó” (Is 22: 21-22).       
 
“Danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, là Thần Linh dũng mãnh, là Người Cha muôn thuở, là Hoàng Tử Hòa Bình”. Chắc chắn đây là những vương hiệu được ban cho vị tân vương vào ngày tấn phong. Người ta gặp thấy nguyên mẫu tương tự ở Ai-cập.      
 
Quả  thật, những danh hiệu tôn kính nầy là những phẩm tính thần linh, nhằm nhắc nhở rằng “tân vương là thiên tử”. “Cố Vấn kỳ diệu”, “Thần Linh dũng mãnh”, đó là những ân huệ được hứa ban cho một mầm non từ gốc tổ Gie-sê: “thần khí khôn ngoan và minh mẫn”, “thần khí mưu lược và dũng mãnh” (Is 11: 1-10). “Người cha muôn thuở” danh hiệu thường được ban cho vua – vị cha của dân tộc – để cầu chúc vương triều của vua muôn đời bền vững. “Hoàng Tử Hoà Bình”, hoà bình là thiện hảo của thời mê-si-a. Các ngôn sứ tranh nhau tiên báo nền hoà bình nầy.      
 
Phụng vụ lễ Giáng Sinh áp dụng tất cả những danh hiệu tôn kính nầy cho Hài Nhi Bê-lem, vì nhận ra ở nơi trẻ thơ nầy là “Đấng Em-ma-nu-en” đích thật.      
 
3. Lời sấm bí ẩn      
Vị  ngôn sứ loan báo sự giải thoát của dân Ga-li-lê, niềm hân hoan và ánh sáng bừng lên trên xứ sở  của họ (vương quốc phương Bắc). Thật lạ lùng, ông nối kết biến cố nầy với cuộc chào đời – hay cuộc phong vương – của một hậu duệ nhà Đa-vít ở vương quốc phương Nam, ở Giê-ru-sa-lem. Phải chăng ông hy vọng hai vương quốc được thống nhất dưới vương quyền của vua mê-si-a?      
 
Điều bí ẩn nầy sẽ gặp thấy lời giải đáp bảy thế kỷ sau. Miền Ga-li-lê rực sáng lên ánh sáng Tin Mừng; Đức Giê-su tự thân là người Ga-li-lê. Nhưng với tư cách là hậu duệ của vua Đa-vít, Ngài sinh ra ở Bê-lem, trong vương quốc phương Nam xưa. Lời loan tin vui của đoàn thiên sứ cho toàn dân (Lc 2: 10) đối đáp với khúc hoan ca của vị ngôn sứ ca ngợi một hoàng nhi ra đời.      
 
BÀI  ĐỌC II  Tt 2: 11-14      
Ông Ti-tô là một trong số môn đệ và bạn đồng hành kỳ cựu nhất của thánh Phao-lô. Ông đã cải đạo; song thân ông đều là người Hy lạp.       
 
Thánh Phao-lô đã trao gởi cho ông các cộng đoàn Ki tô  hữu miền Tiểu Á. Vì thế, ông gặp phải những khó khăn nghiêm trọng. Những chống đối đặc biệt đến từ môi trường Do thái, từ Do thái giáo chịu ảnh hưởng Hy lạp nầy mà chính thánh Phao-lô đã hạm trán ở nơi khác. Vì thế, đối với ông Ti-tô, những lời khuyên của thánh nhân thật là quý báo.       
 
Thật khó xác định niên biểu của bức thư nầy. Chắc chắn đây là một trong số những bức thư cuối đời của thánh nhân. Nhưng chúng ta không biết chắc là thánh nhân đã chịu hành hình vào năm 63 hay năm 67. Nếu thánh nhân được diễm phúc tử đạo vào năm 67, thì thư gởi cho ông Ti-tô được viết vào năm 65. Lúc đó, thánh nhân có thể đang ở Ma-xê-đoan.       
1. Thần tính của Đức Giê-su.      
Trong vài hàng, thánh Phao-lô nhắc nhở ông Ti-tô  giáo huấn cốt lõi mà ông phải kiên vững truyền  đạt: ơn cứu độ Thiên Chúa đã gởi đến cho con người là nhưng không và phổ quát. Thiên Chúa đòi buộc các tín hữu từ bỏ tội lỗi và sống thánh thiện trong khi chờ đợi ngày quang lâm của Đức Ki tô, là “Thiên Chúa vĩ đại, và là Đấng Cứu Độ của chúng ta”.      
 
Việc dùng chữ Thiên Chúa cho Đức Giê-su Ki tô không là cách dùng quen thuộc của thánh Phao-lô. Thánh nhân thường hay dùng chữ “Thiên Chúa” chỉ để chỉ Chúa Cha. Chúng ta gặp thấy một ví dụ duy nhất trước đây trong thư gởi tín hữu Rô-ma: “Người (Đức Ki tô) là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Rm 9: 5b). Dường như những người Do thái giáo bác bỏ Thần Tính của Đức Giê-su Ki tô, một vấn đề mà ông Ti-tô đang phải đương đầu.      
 
2. Lợi ích của bức thư.      
Bức thư nầy không chỉ có lợi ích về  phương diện tín lý, nhưng còn về phương diện mục vụ. Quả thật, cùng với hai bức thư gởi cho Ti-mô-thê, bức thư gởi cho Ti-tô được gọi “thư mục vụ”, vì vị sứ đồ cho những huấn lệnh liên quan đến việc tổ chức các cộng đoàn Ki tô hữu. Quả thật, tất cả các Tông Đồ của Đức Giê-su đã qua đời, đến thời của những người được các Tông đồ uỷ quyền (ông Ti-tô là một trong số họ).      
 
Bức thư mục vụ này giúp chúng ta hiểu được giai đoạn chuyển tiếp giữa việc tổ chức đầu tiên, dưới chỉ thị của các “Kỳ Mục”, và việc hình thành cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội.       
 
TIN MỪNG  Lc 2: 1-14      
Trong số bốn thánh ký Tin Mừng, thánh Lu-ca là thánh ký quan tâm nhiều nhất đến những quy chiếu lịch sử. Ông là vị thánh ký duy nhất giải thích cho chúng ta biết tại sao Đức Giê-su sinh ra ở Bê-lem chứ không ở Na-da-rét. Việc kiểm tra dân số theo chiếu chỉ của hoàng đế Xê-da Âu-gu-tô (năm 30 trước Công Nguyên – năm 14 sau Công Nguyên) được thực hiện trên xứ Palestine theo tập tục Do thái, nghĩa là phải đăng ký ở nơi nguyên quán, chứ không theo cách thức Rô-ma, ở nơi cư ngụ.      
 
Thánh Giu-se trở về Bê-lem vì ông thuộc gia tộc vua Đa-vít. Quả thật, hơn mười thế kỷ trước đó, chính Bê-lem là quê quán của ông Gie-sê, cha của vua Đa-vít. Đối với dân Do thái, kỷ niệm về dòng dõi của mình không bao giờ phai nhạt, nơi chôn nhau cắt rốn vẫn tồn tại trong ký ức của mình. Đó là lý do tại sao việc kiểm tra dân số dưới thời hoàng đế Âu-gu-tô được thực hiện theo tiêu chuẩn truyền thống. Vì thế, thánh Giu-se phải lên đường trở về Bê-lem, nguyên quán của mình.       
 
Tại sao Đức Ma-ri-a theo thánh Giu-se? Phải chăng cô cũng thuộc dòng tộc Đa-vít? Có thể, vì người Do thái thường muốn dựng vợ gả chồng ở trong vòng gia tộc của mình, nhưng không chắc lắm. Thật ra, Đức Ma-ri-a là em họ của bà Ê-li-sa-bét thuộc gia tộc Lê-vi. Người ta gặp thấy cuộc kiểm tra dân số tương tự đã xảy ra ở Ai-cập vào năm 104 sau Công Nguyên và những chứng liệu chứng thực rằng vợ phải trình diện bên cạnh chồng mình.1       
 
1. Hoàn cảnh giáng sinh của  Đức Giê-su.      
 “Khi hai ông bà đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ.       
 
Đừng hiểu rằng Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se bị xua đuổi, điều nầy hoàn toàn trái với phong tục tập quán hiếu khách của người Do thái. Nhưng thật bất tiện đối với một người phụ nữ bụng mang dạ chữa sắp đến ngày mãn nguyệt khai hoa ở nơi đông đúc như vậy. Chỉ nghĩ đến những lữ quán Đông Phương, ở đó người, vật và hàng hoá chen nhau trong sân. Có thể có các phòng trọ nhưng tiền thuê rất đắc, chỉ dành cho những người giàu.      
2. Hai dấu chỉ cùng lúc.       
Đức Giê-su chào đời ở Bê-lem, có nghĩa là “nhà của bánh”. Đó không phải là tên tiền định sao? Thiên Chúa bằng lòng đón nhận thân phận làm người của chúng ta. Ngài còn đi xa hơn trong sự tự hạ: trút bỏ quyền lực và vinh quang của mình, vì tình yêu Ngài làm cho mình trở thành một mẫu bánh.       
 
Ngoài ra, chiếc nôi đầu đời của Ấu Chúa là một  “máng cỏ”. Thánh Lu-ca nhấn mạnh sự kiện nầy đến ba lần (hai lần trong đoạn văn trích nầy, và một lần khác nữa xa hơn). Đây cũng là dấu hiệu mà các sứ thần cho các mục đồng để nhận ra Ngài. Điểm nhấn nầy chắc hẳn có chủ ý. Với điểm nhấn nầy, thánh ký có thể đã hiểu lời tiên báo về số phận của hài nhi nầy, Đấng sẽ dâng hiến thân mình khi nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, vì nầy là Mình Thầy”.      
 
3. Con trai đầu lòng.      
 “Đức Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng”. Diễn ngữ là thuật ngữ pháp lý; nó không bao hàm rằng Đức Ma-ri-a còn có những người con khác. “Anh em của Đức Giê-su” mà các thánh ký nói đến là anh em họ của Đức Giê-su. Trong Cựu Ước, chữ “anh em” có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng. Ngôn ngữ Do thái không có đặc ngữ để chỉ “anh em họ”. Vả lại, “anh em của Đức Giê-su” có những bà mẹ khác nhau (cf. Mt 27: 56; Mc 15: 40-41; Ga 19: 45). Giáo Hội luôn luôn công bố Đức Ma-ri-a trọn đời đồng trinh.       
 
“Con trai đầu lòng” phải chịu nhiều quy định của Lề Luật: phải được thánh hiến và dâng hiến cho Thiên Chúa nhờ hy lễ “chuộc lại” như trường hợp của Đức Giê-su với “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” (của lễ của con nhà nghèo).      
 
Diễn ngữ “con đầu lòng” được lấy lại trong những viễn cảnh Ki tô giáo: Đức Giê-su là Trưởng Tử của một cuộc sáng tạo mới; Trưởng Tử của các vong nhân; mầu nhiệm Nhập Thể của Ngài thật sự mang ơn cứu độ đến cho nhân loại: “người anh cả của một đàn em đông đúc”, như lời của thánh Phao-lô.      
 
4. “Đức Ma-ri-a lấy tả bọc con, rồi  đặt nằm trong máng cỏ”.      
Đấng Tạo Hóa hóa thân thành thân phận yếu hèn và phụ thuộc của một hài nhi bé bỏng. Ngôi Lời Thiên Chúa, Lời Quyền Năng tự mình trở nên “một trẻ sơ sinh không nói được”. Thiên Chúa Hằng Sống giáng trần và chấp nhận tiến trình lớn lên như bao con người khác.      
 
Ba mươi năm sau đó, Đấng ấy sẽ cất cao giáo huấn của mình: “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18: 4); “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước trời là của những ai giống như chúng” (Mt 19: 13-15). Trong Tin Mừng, có một con đường thánh thiện bằng cách trở nên trẻ thơ, và con đường nầy bắt nguồn từ Hài Nhi Bê-lem.      
 
5. Thiên Chúa nghèo khó.      
Cũng chính Hài Nhi Máng Cỏ nầy một ngày kia sẽ nói về cảnh đời của mình: “Chim có tổ, chồn có hang, nhưng Con Người không có nơi gối đầu qua đêm”.       
Thế  nên, không ai gợi lên nhiều mâu thuẩn ở nơi chính mình cho bằng Đức Giê-su nầy, Ngài sinh ra như một kẻ đầu đường xó chợ khốn cùng nhất trong số những kẻ vô gia cư và chết như một tên tội phạm nguy hiểm nhất trong số các tên tội phạm.      
René  Habachi sử dụng khái niệm triết học để diễn tả mầu nhiệm mâu thuẩn nầy: Thiên Chúa là  “Cái Là” (l’Ētre: Hữu Thể), “Cái Là tuyệt đối”, vì thế Ngài không cần “Cái Có” (Avoir), vì ở nơi Ngài “Cái Có” bị tiêu tan bởi “Cái Là”. Cũng một cách nào đó như vậy “cái nghèo vô tận của Thiên Chúa, cái không có tận cùng của Thiên Chúa, là dấu chỉ Thần Tính của Ngài”.2      
 
Jacques Loew trong tác phẩm “Như thấy Đấng Vô Hình” đã cho chúng ta một bài suy niệm sâu sắc về mầu nhiệm Giáng Sinh theo cùng một cách nầy: “Chúa Giê-su đã sinh ra bé nhỏ và nghèo hèn chắc là để biểu lộ tình thương của Ngài đối với những bé nhỏ và nghèo hèn trong thế giới cho tới tận thế; nhưng thật ra cuộc đản sinh khiêm tốn của Ngài còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Chẳng có gì xứng đáng cho Chúa cả; chẳng có gì cao trọng đủ để mà tiếp rước Ngài, cù có trang hoàng mỹ lệ, dù có cung điện lộng lẫy, dù loài người có khôn ngoan. Vì thế Thiên Chúa chọn một nơi không gì hết là vì ở đó không có sự cạnh tranh lố bịch, không có vẻ giàu sang giả tạo. Chúa chỉ ngự đến nơi nào mà ở đó Ngài là tất cả: ở Máng cỏ, trong cảnh nghèo nàn thực sự, nơi mà Đức Ma-ri-a, một tâm hồn khó nghèo” (bản dịch của Lưu Tấn, trang 16-17).      
 
6. Mục đồng.      
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời, canh giữ  đàn vật”. Đó là lý do tại sao chuồng chiên thì trống: đàn vật ở bên ngoài và những người chăn chiên ngủ ngoài trời. Ở xứ Palestine, giữa lễ Vượt Qua và mùa thu, thời tiết rất đẹp. Đức Giê-su không sinh ra vào ngày 25 tháng 12. Việc chọn niên biểu nầy để tưởng niệm ngày chào đời của Ngài đã đề cao ý nghĩa biểu tượng: đông chí đã qua; ánh sáng chiến thắng bóng tối.       
 
Những người đầu tiên được loan tin mừng Giáng Sinh là  những người chăn chiên, nghĩa là những người tầm thường, thường vô học, được liệt vào hạng đàn bà, trẻ con và nô lệ. Đức Giê-su tự  đặt mình vào số những người nghèo, khiêm hạ  và bé nhỏ.      
 
Những người chăn chiên đến vây quanh Hài Nhi, thờ lạy Ngài: Đức Giê-su đến “để chăn dắt dân Ngài”. Ngài là Mục Tử đích thật, Mục Tử nhân lành (Ga 10: 11-15).       
 
Sau cùng việc Đức Giê-su sinh hạ ở giữa những người chăn chiên Bê-lem là “dấu chỉ Đa-vít” tuyệt vời. Ngài sinh ra ở những nơi mà cậu bé Đa-vít đã canh giữ đàn chiên. Ngài là Đa-vít mới.       
 
7. Thiên sứ.      
Bản hợp xướng của các thiên sứ là một dấu chỉ  khác: dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Triều đình thiên giới đã dời chỗ vì  Hài Nhi Máng Cỏ không ai khác hơn là Thiên Chúa đích thân.    
  
Các thiên sứ loan báo “một tin vui trọng đại cho toàn dân”. Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng nhạy bén nhất trước bầu khí vui tươi mà biến cố Nhập Thể đem đến. Niềm vui nầy là niềm vui mê-si-a mà các ngôn sứ biết bao lần đã loan báo (ví dụ như bài đọc I), khúc dạo đầu cho niềm vui viên mãn của cõi đời đời.       
 
Sứ  điệp các thiên sứ gởi đến thật vĩ đại, những từ ngữ thật cảm động: “Đấng Cứu Độ”, “thành vua Đa-vít”, “Đấng Ki tô (Mê-si-a)”, “Đức Chúa”. Thật tương phản biết bao với lời kết thúc thật khiêm tốn nầy: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Tương phản nầy tiền trưng một tương phản khác: bên máng cỏ nầy được bao quanh bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện một bóng tối, bóng tối của núi Sọ; vì Ngôi Lời hóa thành nhục thể, không phải để nhục thể nầy một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá sao?      
 
Bài ca của các thiên sứ: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa yêu”, có thể được mượn ở một bài thánh thi phụng vụ Do thái. Lời hoan hô chúc tụng của đám đông vào lúc Đức Giê-su khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem trích dẫn cùng những lời như vậy: “Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19: 38).      
8. Một sự trao đổi kỳ diệu.      
Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người vừa mặc khải về Thiên Chúa vừa mặc khải về con người. Trong một cuộc yết kiến của thứ tư ngày 28 tháng 12 năm 1977, Đức Thánh Cha Phao-lô VI nói: “Trong nội dung thần linh của nó, mặc khải của lễ Giáng Sinh thì vô giới hạn”. Trong nội dung con người của nó, mặc khải làm chứng về sự cao cả của con người. Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa; nầy đây chính Thiên Chúa mặc lấy dung mạo con người. Kinh Tiền Tụng Giáng Sinh III nói về cuộc trao đổi kỳ diệu: “Vì khi Ngôi Lời của Chúa mặc lấy thân phận mỏng giòn của chúng con, thì loài người phải chết, không những được hưởng vinh dự vĩnh cửu mà nhờ việc tham dự kỳ diệu ấy, Chúa còn cho chúng con được sống muôn đời.”  
 
 
LỄ  RẠNG ĐÔNG GIÁNG SINH
Lm. Ignatiô Hồ Thông
 
Phụng Vụ  Lễ Rạng Đông Giáng Sinh tiếp tục xoay quanh mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa: sự cao cả được ẩn dấu trong sự đơn giản đến mức tối đa. Dân Thiên Chúa chiêm ngắm bà Ma-ri-a, thánh Giu-se, cùng Hài Nhi đặt nằm trong Máng Cỏ.
Is 62: 11-12
Ngôn sứ  I-sai-a đệ tam loan báo rằng những người bị  tản mác khắp nơi được Thiên Chúa quy tụ  lại để thành “dân thánh của Ngài”, “dân được Chúa cứu chuộc”.
Tt 3: 4-7
Thánh Phao-lô  khuyên ông Ti-tô, vị  lãnh đạo cộng đoàn Crète, đừng tìm cách sửa đổi đạo lý tinh tuyền của Ki tô giáo cho phù hợp với ý muốn và sở thích của con người, dù dưới bất kỳ áp lực nào.
Lc 2: 15-20
Đoạn Tin Mừng này là phần cuối của chuyện tích lễ đêm Giáng Sinh. Ở nơi dáng dấp của các mục đồng, thành ký phác họa chân dung của những người Ki tô hữu: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt  thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ”.
 
BÀI  ĐỌC I  Is 62: 11-12
Sứ  điệp này đã được công bố cho Giê-ru-sa-lem vào những năm khó khăn sau khi những người lưu đày trở về từ Ba-by-lon.
 
1. Hiện trạng tang thương của Giê-ru-sa-lem:
Những người hồi hương đã gặp lại Giê-ru-sa-lem nghèo khổ, dân cư thơ thớt, chịu cống nạp cho những người ngoại quốc; Đền Thờ hoang tàn đổ nát. Họ  bắt tay tái thiết Đền Thờ, nhưng công việc phải dừng lại vì thiếu tài chánh. Vì thế họ hoàn toàn vỡ mộng. Ngôn sứ khơi lại ngọn lửa hy vọng của họ. Đức Chúa không quên dân Ngài.
 
Vị  ngôn sứ này là tác giả vô danh mà  người ta đặt biệt danh là ngôn sứ I-sai-a đệ  tam (Is 40-55), vị ngôn sứ của thời hậu lưu đày. Ông là môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 56-66), vị ngôn sứ của thời lưu đày, mà ông lấy lại những cách diễn tả của thầy mình.
 
2. Sứ điệp chứa chan hy vọng:
Vị  ngôn sứ này xác tín rằng thời kỳ cứu độ Giê-ru-sa-lem sắp đến gần, và Giê-ru-sa-lem rồi sẽ lại trở nên đông đúc, vì những con cái của nó bị tản mác khắp nơi sẽ trở về. Chính viễn cảnh về một cuộc quy tụ vĩ đại này hình thành nên chủ đề của đoạn trích hôm nay.
Theo gương thầy và vị tiền nhiệm của mình, ngôn sứ tưởng tượng Đức Chúa dẫn đầu dân Ngài và mang ơn cứu độ đến cho họ (x. Is 40: 10), nhưng đoàn người mà Đức Chúa dẫn dắt không còn là đoàn tù nhân được giải phóng, đây là đám rước bao la của những người Giu-đa bị tản mắc khắp thiên hạ, họ lên đường tiến về Thành Thánh. Đó là thành quả rực rỡ của việc Chúa can thiệp mà muôn dân muôn nước đều nhận biết.
 
Như  vậy, Ít-ra-en lại có thể được gọi là  “dân thánh”, “dân được Đức Chúa cứu chuộc”. Cuối cùng, Giê-ru-sa-lem có thể được chào đón bằng những tên biểu tượng: Nó sẽ được gọi là “Cô gái đắt chồng”; sau khi đã được Chúa của mình sủng ái, nó sẽ không còn là một người vợ bị bỏ rơi.
 
BÀI  ĐỌC II  Tt 3: 4-7
Phụng vụ đề nghị cho chúng ta một đoạn trích mới từ thư của thánh Phao-lô gởi ông Ti-tô.
 
1. Hoàn cảnh:
Trong đoạn trích này, chúng ta gặp lại những chủ đề lớn, cô động về lời rao giảng của thánh Phao-lô.  Ông Ti-tô, người môn đệ mà thánh Phao-lô đã giao phó Giáo Đoàn Crète, đã gặp phải những khó khăn. Thật ra, những cuộc tranh luận về đức tin cốt yếu đến từ những Ki tô hữu gốc Do thái – chắc chắn rất đông ở trong các cộng đoàn Ki tô giáo Crète – một trong những sai lầm của họ là vẫn gắn bó với những công nghiệp của Lề Luật như nguồn mạch ơn cứu độ. Vì thế thánh nhân khuyên ông đừng tìm cách sửa đổi đạo lý tinh tuyền của Ki tô giáo cho phù hợp với ý muốn và sở thích của con người, dù dưới bất kỳ áp lực nào.
2. Ơn cứu độ của Thiên Chúa:
Thật là ý nghĩa khi thánh nhân nhắc lại đến hai lần cùng một chủ đề với thư gởi tín hữu Rô-ma: sự cứu độ không có bất kỳ mối liên hệ nào với những công nghiệp do tự sức chúng ta, nhưng hoàn toàn là ơn huệ nhưng không do lòng nhân hậu và yêu thương của Ngài: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giê-su Ki tô, Đấng cứu độ chúng ta”.
 
3. Những chủ đề quan trọng khác:
Đạo lý phép Rửa cũng được mạnh mẽ tái khẳng định như  ơn tái sinh, cũng như quyền năng của Chúa Thánh Thần hiện ở trong chúng ta, đảm bảo cho chúng ta quyền thừa hưởng sự sống đời đời.
 
Ông Ti tô xem ra một con người nhút nhát, không quyết đoán trước những áp lực từ phía những người chống đối. Thánh Phao-lô mời gọi ông hãy kiên vững và đồng thời khích lệ ông hãy gìn giữ sự tinh tuyền của đạo lý Ki tô giáo.
 
TIN MỪNG  Lc 2: 15-20
Đoạn Tin Mừng hôm nay là phần cuối của chuyện tích Giáng Sinh đã được công bố vào Lễ Đêm Giáng Sinh. Thánh Lu-ca mô tả dáng dấp của các mục đồng: sau khi được các thiên sứ báo tin, “họ liền hối hả ra đi”, như Đức Ma-ri-a, sau khi được sứ thần loan báo, vội vả ra đi đến nhà người chị họ của mình là bà Ê-li-sa-bét. Thiên Chúa đã cho một dấu chỉ; phải đi kiểm chứng tức khắc và cố tìm hiểu ý nghĩa dấu chỉ của Ngài. Dáng dấp của các mục đồng nói lên biết bao bài học. Vì thế, thánh ký đã tô điểm câu chuyện này với nhiều chi tiết long trọng.
1. Mục đồng:
Đấng Mê-si-a, được các ngôn sứ loan báo biết bao lần, được dân Ít-ra-en chờ đợi từ lâu lắm rồi, đã đi vào trong lịch sử con người một cách bất ngờ nhất và kín đáo nhất. Để nhận ra Ngài trong mầu nhiệm tự hạ này, phải có một tâm hồn nghèo khó, lột bỏ khỏi mọi thiên kiến. Thánh Lu-ca là thánh ký về đức nghèo khó.
 
Những mục đồng là những kẻ bị liệt ra ngoài lề xã hội, những kẻ mà các tiến sĩ  Luật nghi ngờ về đời sống đạo hạnh của họ, vì nghề nghiệp của họ không cho phép họ  tuân giữ ngày sa-bát và tham dự thường xuyên kinh nguyện trong các hội đường. Chính ở nơi những tín đồ không ngoan đạo này mà lời loan báo đầu tiên về Triều Đại Mê-si-a được gởi đến. Chúng ta nhận ra cách thức của Thiên Chúa. Đức Giê-su sẽ hớn hở vui mừng và ngợi khen Cha Ngài “vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Lc 10: 21). Chính ở nơi các mục đồng này, thánh ký phác họa dáng dấp của các Ki tô hữu: họ “ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ”.
 
2. Hài Nhi Giê-su:
Khi đến nơi, “họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Thánh Lu-ca nhấn mạnh một lần nữa từ: “máng cỏ” (2: 12, 16). Về phương diện vật chất, máng cỏ là chiếc nôi đầu đời của Con Thiên Chúa làm người; về phương diện tinh thần, Thiên Chúa đã làm cho mình trở nên nhỏ bé và nghèo hèn để được đón nhận. Ngài đến không chỉ để “cho”, nhưng cũng để “nhận”: nhận từ con người sự thờ phượng, lời cầu nguyện, lời ngợi khen và nhất là những cử chỉ yêu thương để rồi từ đó, “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 24: 40).
 
3. Đức Ma-ri-a:
“Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Đây là một ghi nhận quý giá. Thánh Lu-ca vén mở cho chúng ta một trong những nguồn của sách Tin Mừng mang tên thánh nhân; ông đã tô điểm chuyện tích Giáng Sinh với nhiều chi tiết thiêng liêng, nhưng khởi đi từ những sự kiện mà ông đã gìn giữ từ chính Đức Nữ Trinh, Mẹ hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng để cố hiểu hơn nữa mầu nhiệm của Con Mẹ. 
 
Lm. Ignatiô Hồ Thông
 
 
YÊU THƯƠNG VÀ ĐÓN NHẬN THIÊN CHÚA
NƠI ANH CHỊ EM MÌNH
 
Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy, một người đàn ông trạc độ bốn mươi, lòng trĩu nặng ưu phiền, kéo lê những bước chân nặng nhọc lên ngọn đồi đan viện để tìm gặp Cha Tu Viện Trưởng.

Anh nhớ lại thời gian mới thành hôn mười lăm năm về trước. Hồi ấy, gia đình anh lúc nào cũng vang rộn tiếng cười, ngập tràn hạnh phúc. Thế nhưng bầu trời hạnh phúc đó đã tan đi như sương sớm dưới sức nóng mặt trời.
Về chung sống với nhau chưa đầy bốn năm, hai vợ chồng đâm ra xích mích kình cãi nhau liên tục. Vợ anh không còn đối xử với anh ngọt ngào như trước, còn anh thì hay bẳn gắt với vợ con, hai cháu trong nhà trước đây ngoan ngoản bao nhiêu thì giờ đây đâm ra lười biếng, hỗn hào vô lễ bấy nhiêu. Từ bấy lâu nay, trong gia đình chẳng mấy khi có tiếng cười, chẳng ai muốn nói với ai những lời thân ái, chẳng mấy khi cơm lành canh ngọt. Cuộc sống gia đình đầm ấm và hạnh phúc như thiên đàng trong những năm đầu kết hôn bỗng nhiên biến thành như địa ngục.

Để cứu vãn tình thế, anh đã tìm đến những bậc thầy chuyên về phong thủy. Người ta khuyên anh dời cổng nhà sang vị trí khác vì cổng nhà người hàng xóm nhòm thẳng vào cổng nhà anh. Có người đề nghị anh thay đổi hướng nhà, thay đổi vị trí bếp nấu ăn, thay đổi vị trí giường nằm sao cho hợp với phong thủy… Anh đã làm đúng theo những lời khuyên của họ mà tình hình cũng chẳng cải thiện được gì nếu không nói là còn tệ hơn.

Anh cũng tìm đến những nhà chuyên môn về cảm xạ học. Họ khuyên anh đào sâu xuống nền nhà để di dời những bộ hài cốt mà họ cho rằng còn đang bị vùi lấp bên dưới. Anh tin và làm theo ý họ nhưng chẳng thấy gì và cũng chẳng có gì đổi thay.

Anh chạy đến với các Pháp Sư và họ khuyên anh phải cải táng mồ mả ông bà vì vị trí hiện thời không tốt cho con cháu. Anh nhẹ dạ làm theo mà chẳng được tích sự gì.

Cuối cùng, anh tìm đến với Cha tu viện trưởng nổi tiếng thánh thiện đạo đức và được những người dân quanh vùng xem như một vị thánh sống, được ơn thông biết nhiều sự việc nhiệm mầu.

Sau khi nghe anh kể lể sự tình và nêu lên câu hỏi: kẻ nào trong gia đình anh đã mắc phải tội ác tầy trời đến nỗi gia đình phải chịu cảnh bất hòa triền miên như thế, Cha Tu Viện Trưởng thong thả trả lời:
“Mỗi người trong gia đình anh đều mang một tội lớn. Đó là tội vô tình, vô minh. Từ bao lâu nay, Chúa Cứu Thế đã cải trang làm một người trong gia đình anh mà chẳng ai trong gia đình nhận ra Người nên mới sinh ra những sự cố đau buồn như thế.”

Nghe vậy, anh bàng hoàng sửng sốt: “Thật thế ư? Quả là điều quá bất ngờ! Ta phải thông báo nguồn tin trọng đại nầy cho cho vợ con biết ngay mới được.” Anh cấp tốc trở về nhà, vồn vã tươi vui chưa từng thấy. Anh gọi vợ con lại và thông báo cho họ biết một bí mật tuyệt vời đã xảy đến với gia đình, đó là Chúa Cứu Thế đang cải trang thành một người trong gia đình anh.”

Bấy giờ mọi người trố mắt nhìn nhau kinh ngạc. Đấng Cứu Thế cải trang khéo thật! Khéo đến nỗi dù được chung sống với Người bấy lâu nay nhưng không ai nhận ra Người và vì thế đã xúc phạm đến Người nhiều lần không kể xiết. Thế là từ hôm nó, người chồng tránh bất cứ lời nói hay cử chỉ nào làm phiền lòng vợ con vì sợ phạm đến Đấng Cứu Thế; trái lại còn tỏ ra hết sức tử tế và hi sinh tất cả vì vợ vì con, với hy vọng là mình đang phục vụ và làm vui lòng Người. Cũng từ hôm đó, người vợ không còn chanh chua đanh đá với chồng, không còn mắng chửi thậm tệ mấy đứa con; trái lại, luôn tận tụy phục vụ và hết lòng yêu thương chồng con vì rất có thể là Chúa Cứu Thế đang cải trang thành người chồng, người con của chị. Còn con cái thì không còn dám hỗn hào với cha mẹ như trước, nhưng luôn tỏ ra ngoan ngoản vâng lời và tôn trọng cha mẹ vì có thể người cha hay mẹ của mình chính là Đấng Cứu Thế cải trang. Thế là từ đây, bầu khí yêu thương đầm ấm trở lại với gia đình và còn đậm đà hơn bao giờ hết.

Hôm nay, trong ngày đại lễ giáng sinh, chúng ta đang chiêm ngắm một Đấng Cứu Thế đang “cải trang” làm một trẻ sơ sinh nằm trong máng cỏ, trong chuồng bò. Rồi sau đó, Đấng Cứu Thế tiếp tục “cải trang” thành “bác thợ” (Mc 6,3) làng Na-da-rét phiêu bạt đây đó loan báo Tin Mừng. Người cải trang khéo quá đến nỗi phần đông người Do-thái đã không nhận ra Người nên cuối cùng đã đóng đinh Người vào thập giá.

Hôm nay, Đấng Cứu Thế tiếp tục “cải trang” thành người nhà của chúng ta, thành người hàng xóm của chúng ta. Người thật sự hoá thân thành mỗi người chúng ta. Trong “Tâm Thư gửi các gia đình” Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II viết: “Thiên Chúa tự đồng hóa với người cha, người mẹ, người con trong gia đình.” Nói khác đi, mỗi thành viên trong gia đình cũng là thiên chúa vì được “thông phần vào bản tính Thiên Chúa”. (II Pr 1, 4)

Công Đồng Vatican II dạy: “Bằng đường lối nhập thể, Con Thiên Chúa đã đến làm cho loài người thông phần vào bản tính Thiên Chúa (xem Công Đồng Vat II: Sắc lệnh về truyền giáo, chương I số 3). Chúa Giê-su luôn nhắc nhở chúng ta nhớ rằng Người đang hiện diện trong các anh chị em chung quanh và những gì chúng ta làm cho những người chung quanh là làm cho chính Người (Mt 25, 31-46)

Hôm xưa, đang khi Phao-lô đi tìm bắt, không phải là bắt Chúa Giê-su, nhưng là bắt bớ những ai tin vào Người. Ông bị Chúa Giê-su quật ngã trên đường Đa-mát và Người cảnh cáo ông: “Tại sao ngươi bắt bớ Ta? Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ!” (Công Vụ Tông Đồ 9, 4-5)

Thế là từ đây, chúng ta phải nhìn nhận và yêu mến Thiên Chúa bằng xương bằng thịt đang chung sống với ta mỗi ngày. Với niềm tin nầy, người chồng trong gia đình sẽ nhận ra Chúa Giê-su nơi vợ và con cái mình. Ông sẽ tận tình yêu thương và phục vụ vợ con vì xác tín rằng đó là làm cho chính Chúa. Với niềm tin nầy, người vợ trong gia đình sẽ nhận ra Chúa Giê-su nơi chồng và con mình; bà sẽ hết lòng phục vụ và chăm sóc chồng con vì xác tín rằng đó là làm cho chính Chúa Giê-su. Và cũng với niềm tin đó, con cái trong gia đình sẽ nhận ra Chúa Giê-su nơi ông bà cha mẹ và họ sẽ hết lòng phụng dưỡng các ngài như phụng dưỡng Chúa Giê-su. Và rồi mọi người chúng ta sẽ nhận ra Chúa Giê-su cải trang thành những người hàng xóm láng giềng để rồi tận tình hy sinh giúp đỡ họ, dành những gì tốt đẹp cho họ như là làm cho chính Chúa Giê-su. Bấy giờ, gia đình chúng ta sẽ là một tổ ấm hạnh phúc, làng xóm của chúng ta sẽ là một đại gia đình huynh đệ và đất nước chúng ta sẽ là nơi thắm đậm tình người. Bấy giờ, trái đất nầy sẽ không còn khói lửa chiến tranh nhưng trở thành một trời mới đất mới, nơi hòa bình, công lý và yêu thương ngự trị.
 
 
Lm. Ignatiô Trần Ngà
LỄ GIÁNG SINH, năm C : LỄ ĐÊM
Lc 2, 1-14
NOEN, MÓN QUÀ THIÊN CHÚA TRAO
TẶNG CHO NHÂN LOẠI.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
 
Mỗi đêm Noen, chúng ta như cảm nghiệm một điều gì đó thật linh thiêng, thật lạ lùng, mà không huyền diệu sao được khi lời ca của các thiên thần vẫn như văng vẳng nơi tai của mỗi người chúng ta :
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho người Chúa thương “ ( Lc 2, 14 ).
 
Sự bình an Thiên Chúa ban tặng cho loài người hoàn toàn khác với cái an bình nhân loại vẫn trao tặng cho nhau. Bởi vì sự bình an của Thiên Chúa là chính sứ điệp như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt Tin Mừng, đặc biệt nơi mầu nhiệm Giáng Sinh :” Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời “ ( Ga 3, 16 ). Sứ điệp của Tin Mừng Giáng Sinh loan báo cho nhân loại qua người Con Một yêu dấu là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa muốn trao tặng chúng ta chính bản thân của Ngài. Con Một dấu yêu của Thiên Chúa:” Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, và đã cư ngụ giữa chúng ta “ ( Ga 1, 14 ). Vị Chúa tể làm người, vị Chúa của trời đất, vũ trụ, con người luôn yêu thương mọi người, không trừ một ai. Người đã làm người và ở giữa loài người. Con Thiên Chúa làm người là Chúa Giêsu không những yêu thương chúng ta, nhưng còn hơn thế đã liên con người để con người trở nên anh em của nhau. Đó là cái lạ lùng của mầu nhiệm Giáng Sinh.

  • Hài Đồng Giêsu nằm trong máng cỏ hang lừa là vua yêu thương. Ngài là hiện thân sống động nhất của Thiên Chúa tình yêu.
  • Hài Đồng Giêsu là món quà tặng quí giá nhất, Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta.
  • Hài Đồng Giêsu là hiện thân của tình yêu, Ngài nối kết mỗi người chúng ta trong tình thương, trong sự hiệp nhất để chúng ta trở nên anh em với nhau.Đúng như lời Thánh Vịnh viết:” Kìa xem anh em sống chung một nhà…”.

Giáng Sinh quả thực là lễ của Tình Yêu. Đây không chỉ là lễ có tính cách bề ngoài, nhưng trong chiều sâu thẳm của mầu nhiệm Giáng Sinh, chúng ta mừng sinh nhật của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta. Đây là món quà cao quí nhất, tuyệt vời nhất Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại, trao ban cho con người, trao tặng cho mỗi người.

  • Hài Đồng Giêsu là món quà vô giá, món quà không gì có thể so sánh nổi. Ngài đã lớn lên, đã chia sẻ kiếp sống con người như mọi người ngoại trừ tội lỗi. Hài Đồng Giêsu là Chúa, là Cha và là anh em của mọi người, đặc biệt những người khó nghèo, Ngài đã đồng hóa mình với những người nghèo, với những người đau khổ, bệnh hoạn tật nguyền. Giêsu sau này đã thốt lên:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).

Thiên Chúa đã tặng ban cho chúng ta chính Con Một của Người. Phần chúng ta, trong đêm Giáng Sinh kỳ diệu này, chúng ta hãy dâng lên Hài Đồng Giêsu những nghĩa cử yêu thương của chúng ta lên Ngài.
 
Mừng lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa mời gọi con người chúng ta hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận Con của Người : Hài Đồng Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Mỗi người chúng ta phải làm cho tâm hồn chúng ta trở nên hang đáng đẹp nhất cho Con Thiên Chúa ngự trị .
Chúng ta hãy đọc bài thơ của một thi sĩ vô danh đã viết về Mầu Nhiệm Giáng Sinh :
“ Khi bài ca của các thiên thần ngừng bặt,
khi ngôi sao trên bầu trời đã đi khỏi,
khi các vua chúa và hoàng tử đã ở nhà,
khi các mục đồng đã cùng đàn súc vật trở về,
thì công việc Giáng Sinh mới bắt đầu “
 
“để tìm lại những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đã gẫy,
để người đói được ăn no,
để tù nhân được giải phóng,
để các nước xây dựng lại,
để đem lại hòa bình đến với mọi người,
để hòa nhạc bằng trái tim “.
 
Lạy Chúa Hài Đồng Giêsu, xin cho chúng con một quả tim mới, một quả tim biết nhạy cảm, một tấm lòng quảng đại biết trao ban cho anh em đồng loại những nghĩa cử cao quí trong cuộc đời của chúng con. Amen.
 
 
 
 
LỄ BAN NGÀY, năm C
Ga 1, 1-18
NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
Thánh lễ sáng nay không còn cái bầu khí của đêm hôm qua nữa, bởi vì phụng vụ chỉ cho chúng ta thấy :” Ngôi Lời đã làm người …”.Do đó, tiếng hát của các thiên thần trong sự huyền diệu linh thánh của đêm Noen được nhường chỗ cho việc chiêm ngắm Con-Thiên-Chúa-Làm-Người. Chính vì thế, hiệp cùng Giáo Hội hoàn vũ chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vì “ Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban con một mình…”.Đây chính là Đức Giêsu Kitô đã sinh ra nơi hang đá Bêlem, đã lớn lên và sinh sống tại làng quê Nagiarét…
 
Việc các mục đồng theo lời các thiên thần tới cung chiêm Hài Đồng Giêsu nơi hang đá máng cỏ Bêlem trong đêm Giáng Sinh, nhường chỗ cho mọi Kitô hữu chiêm ngắm Con-Thiên-Chúa-Làm-Người, cung chiêm Hài Nhi Giêsu đã tới với nhân loại với hình hài một trẻ thơ nằm trong máng cỏ. Hài Đồng Giêsu chính là Con-Thiên-Chúa-Làm-Người như lời của thánh sử Gioan đã viết :” Ngôi Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta “ ( Ga 1, 14 ). Con Thiên Chúa đã làm người , Ngài hiện diện giữa nhân loại, giữa mọi người. Đây là mạc khải quan trọng và chủ yếu. Thánh sử Gioan dùng chữ :” Logos “, “Lời “, Ngài cố ý nhấn mạnh không những hữu thể siêu việt của Đức Giêsu trong viễn tượng vĩnh hằng mà còn nói tới khía cạnh chủ yếu nhất trong bản ngã của Đức Kitô : chức năng mạc khải. Nhìn như thế thì thấy Đức Giêsu là Logos,Lời, tức là Đấng mạc khải trọn vẹn, toàn vẹn, đầy đủ và chung cục Thiên Chúa Cha vén lộ cho loài người. Mạc khải này đáp ứng niềm trông đợi những điều Thiên Chúa hứa trong CƯ ( x. Ga 14, 8-10,22-23; Kh 19, 13; 1 Ga 1,1 ) ( x.Lời đã thành xác phàm tập I của Linh mục Ph.Hoàng Minh Tuấn  trg 47 ). Theo “ Lời Chúa cho mọi người “ của nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ – Nhà Xuất bản Tôn Giáo Hà Nội- 2005 trg 414 chú giải :” Thiên Chúa đã bước vào lịch sử nhân loại qua Ngôi Lời của Người. Mỗi người theo cách của mình, những vị mang lời Thiên Chúa đã diễn tả Người, cũng như các ngôn sứ trong Kinh Thánh và cà ngôn sứ các tôn giáo khác nữa. Ngôi Lời đã soi sáng mọi người, kể cả những ai không biết thiên Chúa; Ngôi Lời là lương tâm của người công chính thuộc mọi chúng tộc và mọi thời đại.Nhưng Ngôi Lời này, Người Con và Lời của Chúa Cha, một ngày kia đã đến để ban cho ta lời nói cuối cùng qua chính cuộc đời của Người, khi trở nên một người phàm giữa chúng ta “. Khi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu nơi hang đá máng lừa, chúng ta không chỉ nhìn ngắm một nhỏ bé làm người nhưng đó đích thực là Vị Vua Giêsu làm người để sống với, sống cho, sống vì loài người ngoại trừ tội lỗi. Con Thiên Chúa quả thực đã từ bỏ địa vị cao sang để đem tình yêu và hạnh phúc đến cho nhân loại, cho nhiều người đúng như lời thánh Phaolô viết :” Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” ( Pl 2, 6-7 ). Chúa Giêsu từ bỏ chính mình, trở thành”vô ngã “, để Chúa Cha ngợi khen và tôn vinh Người một lần nữa. Do đó, chiêm ngưỡng Hài Nhi Giêsu là nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa, lời hằng sống.
 
Thánh lễ sáng nay nhằm để mọi người nhận ra Ngôi Lời đã làm người và như thế, Hài Nhi Giêsu quả thực là Thiên Chúa cũng như Ngôi Cha, nhưng một khi đã lãnh nhận tất cả, Người lại sẵn sàng trao hiến tất cả. Hài Nhi Giêsu lớn lên và luôn vâng lời Thiên Chúa Cha :” Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng “ Đức Giêsu Kitô là Chúa “ ( Pl 2, 8-11 ).
 
Mầu Nhiệm Giáng Sinh đem nhân loại, đem con người từ cái không nhận ra sự phong phú khôn lường của Ngôi Hai Nhập Thể làm người. Chúa Giêsu đến trần gian không được các nhà lãnh đạo thế giới chào mừng, cũng không được các bậc vị vọng và danh tiếng đón chào. Ngài được những mục đồng, những người thấp hèn, hôi hám đón chào, những mục đồng hèn kém trong xã hội đến nỗi lời chứng của họ không được coi có giá trị trước tòa án. Hài Nhi Giêsu đến thế giới tự đồng hóa mình với những kẻ khó nghèo, đau khổ, dân hèn hạ của xã hội, thậm chí với người tội lỗi. Nhưng Hài Nhi Giêsu lại là một Vị Chúa tể trời đất vĩ đại đến để yêu thương nhân loại, yêu thương mọi người không trừ một ai. Ngài là vua yêu thương luôn quan tâm tới hết mọi người. Vị vua tình yêu sẽ giải thoát loài người qua sự tự hiến cao sâu tuyệt vời của Ngài :” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” ( Ga 15, 13 ).

Lạy Hài Nhi Giêsu, xin mở lòng trí chúng con để chúng con nhận ra Ngài là Vua Tình Yêu. Amen.
 
 
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
CHÚA TÌM GÌ NƠI TA?
Lm. Giuse Tạ duy Tuyền
 
Thánh Gioan đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đã tặng ban Con Một của Ngài cho thế gian”. Người Con của Lời hứa. Người Con mà cả dọc dài lịch sử dân thánh luôn khắc khoải mong chờ. Ngài chính là Thái Tử Bình An. Ngài đến để ban bình an xuống cho nhân trần như lời các thiên thần ca hát: “vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người lòng ngay”. Vâng thưa anh chị em, món quà mà nhân loại luôn khao khát mong chờ không phải là cơm áo gạo tiền mà là niềm vui của bình an hoan lạc. Có tiền mà sống trong loạn lạc, có lẽ cũng chẳng có bụng dạ nào để no say hưởng thụ. Có tiền mà không có lương tâm an bình có lẽ cũng chẳng có niềm vui và hạnh phúc từ trong sâu thẳm tâm hồn.
 
Cách đây 20 năm vào mùa Giáng sinh năm 1989, trong cuộc họp thượng đỉnh tại đảo Malta, Tổng thống Bush cha đã tặng chủ tịch Gorbachov của liên bang Xô Viết một viên gạch. Viên gạch này mà một thời nó đã góp phần làm nên một bức tường “ô nhục Bá Linh”. Một bức tường ngăn cách tình người. Tình người trong một đất nước, một dân tộc. Một sự ngăn cách tưởng chừng như vô bờ, thế mà hôm nay bức tường này đã được đập bỏ. Tổng thống Bush tặng viên gạch này như dấu chỉ một khao khát hoà bình. Một khao khát sống liên đới thuận hoà để con người cùng nhau xây dựng một thế giới an bình và thịnh vượng.
 
Thiên Chúa cũng đã tặng ban cho chúng ta không phải là một viên gạch vô tri, vô giác mà là chính Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh làm người. Ngài đã mang lấy thân phận con người để đưa con người trở về  với Thiên Chúa. Con người là hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải sống đúng với phẩm giá làm người của mình. Ngài đến để ban bình an, nhưng Ngài cũng đòi con người hợp tác để bình an của Chúa được trải rộng khắp muôn nơi. Dấu chỉ của sự hợp tác tích cực mà Chúa muốn con người là: hãy tặng lại cho Ngài chính hình ảnh trong sáng, ngay thẳng, đầy yêu thương mà Ngài đã tạo dựng con người ngay từ ban đầu.
 
Trong kỳ họp Apec tổ chức tại Việt Nam, các thành viên đều nhận được một món quà là chính hình ảnh của mình được các nghệ nhân Việt Nam điêu khắc trên đá. Có lẽ đó là món quà qúy giá mà các nguyên thủ các quốc gia đã nhận được từ các nghệ nhân Việt Nam. Họ đã đến Việt Nam và họ đã nhận lại được hình ảnh của họ từ những con người rất hiếu khách của dân tộc Việt Nam. Một dân tộc luôn ưa chuộng hoà bình, luôn lấy “dĩ hoà vi qúy” làm nền tảng cho mọi giao tiếp hằng ngày. Một dân tộc luôn đề cao tình làng nghĩa xóm đến mức độ “tối lửa tắt đèn có nhau”, để rổi sống liên đới chia sẻ với nhau trong tình thần “chị ngã em nâng” và “lá lành đúm lá rách”. Nhất là luôn sống tha thứ cho nhau để có được một cuộc sống vui tươi an bình, vì “một điều nhịn chín điều lành”. Đó cũng là những hình ảnh rất đẹp mà các nguyên thủ các quốc gia đến họp hội nghị Apec đã thấy nơi nền văn hoá Việt Nam. Thế nhưng, thử hỏi lại lòng mình, chúng ta đã thực sự sống điều đó để giữ mãi bản sắc tươi đẹp của văn hoá dân tộc Việt Nam? Với bốn ngàn năm văn hiến, chúng ta đã thực sự sống những nét cao đẹp của văn hoá Việt Nam mà cha ông đã để lại cho chúng ta hay chưa? Hay chúng ta đang quên dần, và cố đuổi theo những trào lưu hưởng thụ, thoái hoá đạo đức, băng hoại luân lý và xa rời tình người?
Với tư cách là người kytô hữu, là những con người luôn ý thức mình mang hình ảnh Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta còn giữ sự tinh tuyền của Ngài nơi tâm hồn chúng ta hay không? Hay hình ảnh của Ngài đã bị hoen ố bởi thói hư tật xấu của chúng ta? Có lẽ trong giờ phút này, Thiên Chúa cũng đang cần chúng ta tặng lại cho Ngài hình ảnh tinh tuyền ban đầu của tạo dựng. Một hình ảnh trong sáng không bỉ hoen ố bởi đam mê nhục dục, bởi tham vọng thống trị anh em và tham lam vô độ. Một hình ảnh chân thật không quanh co, giả dối đến nham hiểm hại người hại đời. Một hình ảnh đầy tình yêu không bị những toan tính trục lợi, những bất công lừa đảo, và lỗi công bình bác ái với anh em. Tất cả những cách sống sai lệch với hình ảnh ban đầu của tạo dựng, đã làm mờ nhạt đi hình ảnh của Thiên Chúa nơi cuộc sống thường nhật của chúng ta. Và là bức tường ngăn trở cho nước Chúa trị đến, cho an bình của Chúa trải rộng khắp muôn nơi.
 
Năm nay, năm thánh cho dân tộc Việt Nam, mỗi người chúng ta được mời gọi sống thánh giữa đời, được cụ thể qua việc tuân giữ hai giới răn quan trọng nhất đó là Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh em như chính mình. Mến Chúa trên hết mọi sự nghĩa là phải để cho Ngài chỗ nhất trong cuộc sống. Đừng vì những đam mê danh lợi thú mà quên đi giá trị đích thực của phẩm giá con người là hình ảnh của Chúa. Con người được gọi là “nhân linh ư vạn vật”, nghĩa là con người hơn muôn loài vật. Không loài nào sánh bằng con người. Không loài nào xứng đáng để con người tôn thờ. Do vậy, chỉ có Thiên Chúa mới đáng cho chúng ta tôn thờ. Tiền bạc, địa vị, sắc dục chỉ là thọ tạo thấp bé và rất tầm thường so với con người. Vì thế đừng vì nó mà bỏ quên Chúa. Đừng vì nó mà xúc phạm đến anh em. Đồng thời, mến Chúa phải yêu mến anh em. Yêu mến không chỉ trên đầu môi chóp lữơi, nhưng bằng những hành động cụ thể: đó là kính trọng anh em, là sống công bình bác ái với anh em, và đỉnh cao của tình yêu là sự dấn thân phục vụ anh em trong khiêm tốn và chân thành.
 
Lạy Chúa, Chúa đã sinh ra trong thân phận con người. Chúa  đã tự đồng hoá mình với những người khổ đau. Xin cho chúng con luôn nhận ra Chúa trong anh em để chúng con luôn đối xử với nhau trong công bình, bác ái, trong kính trọng và yêu thương. Xin giúp chúng con luôn biết gìn giữ hình ảnh tinh tuyền của Chúa nơi chúng con. Xin gìn giữ linh hồn chúng con khỏi những đam mê bất chính làm hoen mờ hình ảnh Chúa nơi chúng con. Amen
 
Lm. Giuse Tạ duy Tuyền
 
 
HAI NGÀN NĂM TRƯỚC
Lm. Anphong Trân Đức Phương
 
Trong suốt Mùa Vọng, chúng ta đã dâng nhiều hy sinh hãm mình, cầu nguyện, lãnh phép Giải Tội để dọn tâm hồn hầu xứng đáng long trọng mừng Đại Lễ Chúa Giáng Sinh. Ở nhiều nơi, Lễ Chúa Giáng Sinh cũng được gọi là Lễ No-en (Noel: từ tiếng Latinh: “Natalis Dies”) và mừng vào ngày 25 tháng 12 hàng năm (Về ngày “Sinh Nhật của Chúa Giêsu”, xin đọc bài “Nhân Mùa Giáng Sinh: Tìm Hiểu Ngày Sinh Nhật của Chúa Giêsu Kitô”).

Hôm nay, nhân loại ở khắp nơi hân hoan mừng ngày Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và ở giữa chúng ta (Emmanuel). Vâng, từ hơn hai ngàn năm trước, khi “thời gian đã viên mãn”, Ngôi Lời Thiên Chúa đã mặc lấy thân xác người phàm nơi lòng Trinh Nữ Maria qua quyền năng của Chúa Thánh Thần, Ngài đã sinh ra và lớn lên như một con người trần thế. Ngài đã không sinh ra trong ‘lầu cao, gác tía’, trong cảnh quyền qúy cao sang; nhưng Ngài đã sinh ra trong cảnh khó nghèo cùng cực, nơi hang bò lừa. Ngài đến để đem thình thương, hoà bình cho nhân loại.

Đại lễ Chúa Giáng Sinh được mừng qua nhiều Thánh Lễ khác nhau:

  • Lễ Vọng Giáng sinh được mừng vào chiều ngày 24/12. Lễ Nửa Đêm thường được cử hành vào chính nửa đêm. Lễ Rạng Đông mừng vào lúc sáng sớm ngày 25/12, và Lễ Ban Ngày.

Thánh Lễ Vọng, Bài Phúc Âm (Matthêu 1: 1-25) kể lại gia phả của Chúa Giêsu bắt đầu từ tổ phụ Abraham. Tiếp theo là câu chuyện Trinh Nữ Maria chịu thai bởi phép Chúa Thánh Thần, và Thánh Giuse, sau khi được Thiên Thần cho biết “Đức Maria mang thai là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần”, liền vui mừng rước Maria về làm vợ theo luật pháp. Bài Đọc I (Isaia 62:1-5) nói đến Đấng Công chính xuất hiện như ánh sáng soi chiếu trần gian. Ngài đến để mang ơn cứu độ cho nhân loại”. Bài Đọc II (Công Vụ Tông Đồ 13: 16-17, 22-25) nói đến Chúa Giêsu thuộc dòng dõi Vua David, và Thánh Gioan Tiền Hô đã ban Phép Rửa Thống Hối để dọn tâm hồn dân chúng đón Ngài đến.

  • Lễ Nửa Đêm thường được cử hành rất long trọng vào đúng nửa đêm để kỷ niệm việc Chúa Giêsu sinh ra nghèo khó trong hang bò lừa giữa đêm khuya. Bài Phúc Âm (Luca 2: 1-14) kể rõ thời gian Chúa giáng sinh là vào đời Augusto (Hoàng Đế Rôma từ năm 29 trước Chúa giáng sinh đến năm 14 sau Chúa giáng sinh). Vì lệnh kiểm tra, thánh Guise phải đưa Đức Maria về khai sổ nơi nguyên quán là thành Vua David (Bêlem); hai ông bà đã đến nơi vào đúng lúc Đức Maria đến giờ sinh con, và vì không còn chỗ trong các nhà trọ, nên phải sinh con trong hang đá bò lừa giữa đồng trống lạnh giá. Các mục đồng là những người đã được Thiên Chúa báo tin mừng trước hết để đến kính viếng Chúa Hài Nhi được “bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”, và cả đạo binh Thiên Thần ca hát chúc mừng Chúa Hài Nhi giáng trần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương!”

Bài Đọc I (Isaia 9: 1-6) ghi lại những lời tiên tri Isaia nói trước về ngày Đấng Cứu Thế đến “như ánh sáng chiếu soi bóng tối… Ngài là Người Cha muôn thuở, là Hoàng Tử Thái Bình…” Bài Đọc II (Thư Titô 2: 11-14): Thánh Phaolô nói đến ân sủng Chúa giáng trần đem đến cho nhân loại: “Dạy chúng ta phải từ bỏ tội lỗi, sống công chính và đạo đức… Vì Ngài đã hiến thân để cứu chuộc chúng ta, và quy tụ chúng ta thành một dân riêng của Ngài, một dân chỉ chăm lo làm việc thiện.”

  • Lễ Rạng Đông được dâng vào lúc trời bừng sáng để nói lên tư tưởng chính trong Lễ Rạng Đông: Hôm nay, sự sáng chiếu soi trên nhân loại, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta …” (Ca Nhập Lễ). Bài Phúc Âm (Luca 2: 15-20) kể lại việc các mục đồng được Thiên Thần báo tin để đến thờ lạy Chúa Hài Nhi, và họ đã thấy “Đức Maria, Thánh Giuse và Hài Nhi nằm trong máng cỏ…” Sau đó, các mục đồng đi loan truyền cho mọi người biết; họ “vừa đi vừa ca tụng Thiên Chúa về những điều đã được mắt thấy tai nghe…” Bài Đọc I (Isaia 62: 11-12) nói về niềm vui mừng ngày Đấng Cứu Thế đến. Những ai tin và được Ngài cứu chuộc sẽ được gọi là dân thánh của Chúa. Bài Đọc II (Thư Titô 3: 4-7), Thánh Phaolô nói đến ơn cứu độ Chúa ban cho chúng ta do lòng nhân từ của Chúa, chứ không do công nghiệp của chúng ta; nhờ ơn cứu chuộc của Chúa, chúng ta “được tái sinh trong Phép Rửa và được canh tân nhờ ơn Chúa Thánh Thần.”
  • Lễ Ban Ngày, nhấn mạnh đến niềm vui Chúa Giáng sinh: “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta… Thiên Chúa đã đến với chúng ta …” (Ca Nhập Lễ). Khắp mọi nơi trên thế giới được nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa; nên hãy “hân hoan hát lên một Bài Ca mới…” (Đáp Ca, theo Thánh Vịnh 97). Bài Phúc Âm (Gioan 1: 1-18): Thánh Gioan Thánh Sử nói đến ý nghĩa sâu xa của Mầu Nhiệm Nhập Thể; “Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn có từ trước đời đời, đã nhập thể mặc lấy thân xác loài người để ở giữa chúng ta và ban ơn cứu độ cho chúng ta. Thánh Gioan Baotixita đã được sai đi trước dọn lòng dân chúng để đón Đấng Cứu Độ. Bài Đọc I (Isaia 52: 7-10): Tiên Tri Isaia loan báo trước về ngày Đấng Cứu Thế đến và ban ơn cứu độ cho nhận loại, và khắp mọi nơi trên mặt đất đều được hưởng ơn cứu độ của Người”. Bài Đọc II (Thư Do Thái 1: 1-6): Thánh Phaolô nói đến lịch sử ơn cứu độ qua các thời gian: từ thuở xa xưa, Thiên Chúa nói qua các tiên tri nhiều lần và dưới nhiều hình thức, và nay đã được thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô giáng sinh. Ngài đã đến chịu đau khổ để cứu chuộc chúng ta, tẩy sách tội lỗi chúng ta. Ngài đã sống lại và lên trời vinh hiển để mở đường giải thoát chúng ta. Vì thế, muôn loài, muôn vật đều thờ lạy Ngài trong vinh quang.

Mùng ngày Chúa giáng sinh, chúng ta hãy cùng hiệp lời cầu nguyện, xin Chúa mở rộng lòng chúng ta để chúng ta luôn biết noi gương Chúa dấn thân phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khó, những người bị xã hội bỏ rơi. Xin Chúa ban hòa bình của Chúa cho mọi gia đình, cho thế giới chúng ta, cho quê hương và Giáo Hội Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay. Xin Chúa nhân từ chúc lành cho chúng ta cũng như cho các vị Chủ Chăn, các Linh Mục, Tu sĩ nam, nữ và toàn thể dân Chúa trong Năm Linh Mục này.
 
 
Lm. Anphong Trân Đức Phương
 
 
CON TRẺ ĐANG GỎ CỬA
(Is 9,1-6; Lc 2,1-14)
Lm. Nguyễn Hữu Thy
Hôm nay Ðấng Cứu Thế, Ðấng Giải Phóng muôn dân đã được sinh ra. Thiên Chúa đã trở thành phàm nhân và đang ở giữa chúng ta!
 
Ðó không chỉ là một biến cố vô cùng vĩ đại cho cả vũ trụ, nhưng còn là một điều rất gần gũi và rất nhân bản: Thiên Chúa toàn năng vô biên đã trở nên một hài nhi yếu đuối đang cần đến một bà mẹ. Vâng, Thiên Chúa đã trở nên một hài nhi, một con trẻ, một con người, đã bước vào đời với tiếng khóc và nước mắt, đang cất tiếng cầu cứu, đang giơ đôi tay nhỏ bé về hướng mẹ để tìm được ấp ủ và chở che!

Quả vậy, Thiên Chúa đã trở nên một hài nhi đang cần đến tình yêu chở che của con người: Từ việc đi tì m k iếm một chỗ nghỉ chân cách vô vọng, cho tới việc phải lén lút chạy trốn trước lưỡi gươm tàn ác của Hê-rô-đê, v.v…! Nhưng phải chăng con trẻ Giêsu nếu được sinh ra trong thời đại văn minh tân tiến của chúng ta ngày nay sẽ gặp được nhiều may mắn hơn chăng? Ai sẽ bảo đảm được điều đó? Tôi thiết tưởng rằng số phận của Người vẫn không được may mắn và sáng sủa hơn, nếu không nói là rất có thể còn tồi tệ và nguy hiểm hơn!

Nhìn vào cuộc sống xã hội ngày nay, người ta phải nhận định rằng tuy phương diện vật chất đã được cải tiến rất nhiều, nhưng lòng ích kỷ của con người vẫn không thay đổi, nếu không nói là còn trở nên thâm hiểm hơn. Do đó, họ đã giết chết hàng triệu đứa trẻ ngay trong bụng mẹ chúng, vì họ coi chúng như những đối thủ cạnh tranh với đời sống hưởng thụ ích kỷ của họ. Nhiều nơi trên thế giới, các trẻ con đã bị coi như những thành phần thừa thải và tốn kém cho xã hội và gia đình. Người ta từ chối trao trả cho chúng những quyền lợi thuộc về chúng. Vâng, các trẻ em ngày nay thường bị chèn ép, bị đối xử tàn tệ và thiếu đi các điều kiện cũng như không gian để phát triển cuộc sống của chúng trong sự tự do và trong sự hồn nhiên vui vẻ.
 
Con trẻ đang gõ cửa! Ngày nay tiếng gõ cửa tìm một nơi nghỉ chân như thế, càng khẩn thiết hơn bao giờ hết. Vì bầu không khí của xã hội nhân loại ngày nay thường tỏ ra thù nghịch với trẻ con, đến nỗi nhiều khi người ta có cảm tưởng: Xã hội ngày nay là một xã hội của người lớn, của người trưởng thành, chứ không phải là của trẻ con. Trẻ con không có chỗ đứng trong đó. Chẳng những thế, nhiều nơi trong thế giới hôm nay, trẻ con còn bị coi như một hình thức nguy hiểm hay như một tai họa mà người ta cần phải tránh. Một ví dụ điển hình: Nhiều người khi đi thuê nhà hay thuê phòng ở đã không dám nói mình có con nhỏ, vì nếu chủ nhà biết họ có con nhỏ thì sẽ bị từ chối ngay lập tức. Thật là một hiện tượng phản nhân bản. Cũng vì thế, việc bóp chết, việc tiêu diệt sự sống bất khả tự vệ, sự sống vô sinh, việc phá thai, không những chỉ được coi như một rủi ro đáng tiếc mà thôi, nhưng còn được coi như một cái “mốt” của sự tiến bộ thức thời, một kiểu thoát ly tân tiến!

Trong tư duy của một số lớn những người hôm nay, đứa trẻ được coi như một cạnh tranh đối với sự tự do của họ, đối với tương lai thoải mái và sự yên tĩnh của họ, và như một đe dọa chiếm mất chỗ của họ! Vâng, chúng ta đã chất lên cuộc sống của mình đầy đủ thứ đồ vật, đủ thứ sản phẩm và chúng ta vẫn chưa hài lòng với những thứ mà chúng ta chiếm hữu và rồi sẽ vất bỏ. Tiếp đến, chúng ta vẫn luôn có chỗ cho con vật này hay con vật nọ trong nhà mình, và lấy chúng làm bạn, làm nguồn vui. Nhưng đối với một con người mới, một đứa trẻ, thuộc về chúng ta và đang đi vào cuộc sống chúng ta để chia sẻ với chúng ta, thì chúng ta lại không còn chỗ nữa, vì đứa trẻ bị coi như một gánh nặng bất khả kham cho chúng ta.
 
Con trẻ đang gõ cửa! Nếu chúng ta chấp nhận đứa trẻ, chúng ta phải kiểm tra lại một cách toàn diện thái độ của chúng ta đối với cuộc sống; chúng ta phải sẵn sàng coi cuộc sống như một món quà được dành cho những kẻ khác nữa, chứ không chỉ thu vén nó cho chính mình mà thôi. Chúng ta cần phải sửa sai tư duy và định kiến của mình về sự sống, hãy tập nhìn vào đứa trẻ không phải như một đe dọa đối với sự tự do của chúng ta, nhưng là một may mắn cho cuộc sống; không phải như một đối thủ cạnh tranh, sẽ giành giật lấy phần đất sống của chúng ta, nhưng là sức mạnh sáng tạo cho tương lai nhân loại.

Ði kiếm chỗ trọ! Ðó không phải chỉ là thảm cảnh của hàng ngàn hàng vạn trẻ con vô sinh, nhưng của cả hàng triệu người vô gia cư. Vâng, khắp nơi trên thế giới, hàng triệu người di cư đã phải bỏ lại quê hương, bỏ lại nhà cửa và mọi sự, để đi tìm sự sống còn, sự tự do và một cuộc sống có nhân phẩm. Giờ đây tất cả họ đang phải sống trong cảnh bất an, đầy đe dọa và nguy hiểm, đang phải sống nheo nhóc đói rét và không có tương lai. Tiếng kêu cứu của hàng triệu người đó đã vang thấu tới trời: Họ đang cần được cứu trợ! Nhiều người trong chúng ta đã từng trải qua hoàn cảnh tương tự và hy vọng cũng nhờ đó mà cảm thông được phần nào thảm cảnh đau thương của những người đồng loại hôm nay. Vâng, tất cả chúng ta đều thông cảm cho sự bất hạnh đó!

Nhưng nếu sự thể bất hạnh đó xảy ra trước cửa nhà chúng ta, liệu chúng ta có cảm thấy khó xử không? Chắc chắn rằng những người dân cư ở Bê-lem xưa cũng đã có những lý dó hợp lý để từ chối không tiếp nhận đôi vợ chồng nghèo, đến từ Na-da-rét, với những lời thoái thác: Thật đáng tiếc, nhà chúng tôi không còn giường trống nữa! Hay: mọi phòng trong nhà đều có người ở cả rồi, ông bà sang nhà bên cạnh hỏi xem sao! Tương tự như vậy, chắc chắn chúng ta cũng tìm ra được những ly do rất hợp lý, để từ chối thực thi đức bác ái với những người vô gia cư đang hy vọng chờ trước cửa nhà và cửa lòng chúng ta!

Cuối cùng, đi kiếm chỗ trọ: Cũng có nghĩa là những chương trình lạc quyên cho các nạn nhân của những thiên tai, lụt lội, v.v… đặc biệt trong mùa Giáng Sinh đang chờ đợi sự góp phần của chúng ta. Tất cả mọi nạn nhân của đủ thứ tai ương đang gõ vào cửa lòng chúng ta và cầu xin chúng ta cho phép họ được dự phần vào các của cải vật chất đã được Thiên Chúa dựng nên cho hết mọi người và hiện Người đang trao phó cho chúng ta quản lý. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Người. Còn những ai đón nhận Người, tức những ai tin vào danh Người, thì Người ban cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa!» (Ga 1,11-12).

Trong giờ phút linh thiêng này, chúng ta cầu xin Người giúp chúng ta biết mở rộng lòng mình để có thể nghe được tiếng gõ cửa của Người, tin tưởng mở rộng mọi cửa ngõ để đón tiếp Người trong những trẻ vô sinh, trong những người vô gia cư, trong những người nghèo đói, v.v…, hầu chúng ta được trở nên con cái của Thiên Chúa, những đứa con của Người Con, mà qua Người ánh sáng chân thật đã được chiếu vào thế gian trong đêm nay!
 
 
 
Lm. Nguyễn Hữu Thy
 
 
 
VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI …
(LỄ ĐÊM 24.12.2009)
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
I. THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG NÀO?
1. Bài đọc 1  Is 9,1-6:
Là những lời loan báo của ngôn sứ I-sai-a về “một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta”. Sư xuất hiện của Trẻ Thơ ấy đem lại niềm vui vô cùng lớn lao cho dân Chúa là những người đang sống trong cảnh khổ cực. Trong đoạn Sách I-sai-a trên, trước hết chúng ta khám phá ra tình thương và kế hoạch của Thiên Chúa. Kế đến, chúng ta cũng khám phá ra dung mạo của Vị Thiên Sai là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. Và sau cùng, chúng ta còn khám phá sứ mạng của Thiên Sai là “bẻ gãy cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp dân” và “sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời.”
 
2. Bài đọc 2  Tt 2,11-14
Là những lời Thánh Phao-lô Tông đồ viết cho ông Ti-tô là cộng sự viên thân cận của ngài về ơn/đấng cứu độ là Chúa Giê-su Ki-tô mà Chúa Cha đã ban cho nhân loại. Qua đoạn thư trên, chúng ta khám pha ra tình thương bao la chẳng những của Thiên Chúa mà của cả Đức Ki-tô là Đấng đã tự hiến cho chúng ta được cứu độ tức thoát khòi đời/lối sống bất chính và trở thành dân riêng của Người, dân say mê theo đuổi sự công chính và thánh thiện.
 
3. Bài Tin Mừng Lc 2,1-14:
Là tường thuật của Thánh Lu-ca về sự kiện trọng đại nhất của lịch sử Ki-tô giáo: Con Thiên Chúa sinh hạ làm một trẻ sơ sinh được đặt tên là Giê-su, con bà Ma-ri-a và thuộc dòng dõi Đa-vít. Trẻ thơ mang sứ điệp lớn lao mà nhân loại ở mọi thời mọi nơi mong đợi: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người Chúa thương!” Vì thế mà các thiên thần ca hát vang trời và các mục đồng hân hoan đón nhận cách biểu lộ độc nhất vô nhị của Thiên Chúa: Đấng quyền năng cao cả trong con trẻ đơn sơ, nghèo nàn! Qua đoạn Phúc Âm Lu-ca 2,1-14 trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa Ngôi Hai làm người để tỏ bày vinh quang của Thiên Chúa và đem bình an cho mọi người, nhất là cho những người bé mọn trong xã hội.
 
Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Hài Nhi Giê-su là Quà Tặng của Thiên Chúa được ban cho nhân loại. Người được (Mẹ là Đức Ma-ri-a) sinh ra ở Bê-lem trong khung cảnh đơn sơ nghèo nàn, nhưng được các thiên thần hát mừng và các mục đồng chào đón trong hân hoan.
 
IV. SỐNG LỜI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
1. Sống với Thiên Chúa là Đấng thực hiện kế hoạch cứu độ nhân loại nơi Ngôi Lời Nhập Thể là Đức Giê-su con Đức Ma-ri-a. Sống với Chúa Hài Nhi là Đấng đã sinh ra trong máng cỏ Bê-lem để đem bính an và tình thương đến cho nhân trần. Sống với Chúa Thánh Thần là Đấng đồng hành và cộng tác với Chúa Giê-su Hài Nhi trong Mầu Nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc!
2. Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là đón nhận Hài Nhi Giê-su là Con Thiên Chúa, là Đấng muôn dân trông đợi. Người đến trần gian là để đem ơn phúc của Thiên Chúa cho hết mọi người.
 
V. CẦU NGUYỆN
1. Ngôn sứ I-sai-a đã loan báo “một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta.” Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con ngợi khen, cảm tạ và chúc tụng Cha vì Cha đã ban tặng Con Một Cha cho chúng con. Xin Cha cho càng ngày càng có nhiều người nhận ra Hài Nhi Giê-su là Cứu Chúa!
Xướng: Chúng con cầu xin Cha!
Đáp: Xin Cha nhận lời chúng con!
 
2. Lạy Thiên Chúa là Cha của Hài Nhi Giê-su và là Cha của hết mọi người, cách riêng của những người bé mọn, khi Con Một Cha chào đời ở Bê-lem, thiên thần đã báo tin vui cho các người chăn chiên trong vùng rằng: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa!” Chúng con tha thiết nài xin Cha ban ơn đức tin cho những người đang khao khát Ơn Cứu Độ!
Xướng: Chúng con cầu xin Cha!
Đáp: Xin Cha nhận lời chúng con!
 
3. Lạy Thiên Chúa là Cha của Hài Nhi Giê-su và là Cha của chúng con, khi Con Một Cha chào đời ở Bê-lem, muôn vàn thiên bình hợp với sứ thần đã cấttiếng ngọi khen Cha: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”! Chúng con tha thiết nài xin Cha biểu lộ vinh quang của Cha cho nhân loại ngày hôm nay và ban bình an cho những ai đang phải đau khổ vì xung đột, chiến tranh và hận thù.
Xướng: Chúng con cầu xin Cha!
Đáp: Xin Cha nhận lời chúng con!
 
 
TÔN VINH TÌNH THƯƠNG CỨU ĐỘ
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
 
Mỗi năm chúng ta mừng Lễ Chúa Giáng Sinh có một lần. Nhưng Mầu Nhiệm Thiên Chúa Giáng Sinh làm người và “cắm lều” ở giữa chúng ta thì luôn ở bên chúng ta, bao trùm đời sống chúng ta, vì Người là Em-ma-nu-en, là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Ân huệ của Lễ Giáng Sinh thì chúng ta hưởng mỗi giây, mỗi phút, đúng như Lời Phúc Âm của Thánh Gio-an: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16).
 
Vì thế mà chúng ta được mời gọi hãy hồi tâm trong thinh lặng mà điểm lại những ơn huệ lớn lao mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta qua và nhờ Con Trẻ Giê-su, Đấng đã sinh ra trong hang bò lừa và đã được đặt nằm trong máng súc vật ở Bê-lem, cách nay hơn hai ngàn năm. Để khi mừng Lễ Chúa Giáng Sinh thì chúng ta tôn vinh Tình Thương Cứu Độ của Thiên Chúa.
 
I. THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG BAN ƠN
1. Ơn Tạo Dựng
Trong các Ơn mà Thiên Chúa đã khứng ban cho chúng ta thi truớc hết là Ơn được làm người, được có mặt trong thế giới này, với các khả năng nghe, nói, nhìn, ngửi, nếm, cảm, nhớ, hiểu và yêu của một tạo vật cấp cao mà Thánh Kinh diễn tả là được dựng nên “theo hình ảnh Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa”
“Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.”
“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.” (St 1,26-27).
 
2. Ơn Quan Phòng
Thiên Chúa tạo dựng chúng ta làm người, nhưng Người còn quan tâm, săn sóc, chăm lo cho từng buớc đi, cho từng nhịp sống. Đó là Ơn Quan Phòng mà không phải ai trong chúng ta cũng có nhận thức đúng đắn mà tin tưởng phó thác và tạ ơn Thiên Chúa mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút:
“Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc. Hãy nhìn những con quạ mà suy: chúng không gieo, không gặt, cũng không có kho có lẫm, thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý giá hơn loài chim biết bao! Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được một gang tay? Vậy, việc nhỏ nhất mà anh em còn làm không được, thì anh em lo lắng về những việc khác làm gì? Hãy nhìn hoa huệ mà suy: chúng không kéo sợi, không dệt vải, thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Phần anh em, đừng tìm xem mình sẽ ăn gì, uống gì, và đừng bận tâm. Vì tất cả những thứ đó, dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm; nhưng Cha của anh em thừa biết anh em cần những thứ đó. Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Lc 12,22-31).
 
3.  Ơn Tha Tội
Dù được bao bọc và nâng đỡ bằng muôn vàn ơn, chúng ta vẫn có thể sa ngã và phản bội Thiên Chúa hoặc vì yếu đuối, dại dột hoặc vì ương bướng, cậy sức mình mà bỏ nhà đi hoang. Trong những lúc ấy, Thiên Chúa như một người cha luôn ngóng chờ bóng dáng đứa con hư trở về mà ôm chúng ta vào lòng mà thứ tha tội lỗi và bù đắp cho sự thiệt thòi mà tự chúng ta đã tạo ra cho mình khi rời xa nhà Cha:
“Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” (Lc 15,22-24).
 
4. Ơn Nghĩa Tử
Nhưng còn hơn thế nữa, chúng ta không chỉ được Thiên Chúa cứu khỏi cõi chết mà còn được Người đưa chúng ta vào trong nhà Người, nhận chúng ta làm con cái của Người. Ơn Nghĩa Tử đi theo sau hai Ơn Cứu Độ và Tạo Dựng:
“Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.” (1 Ga 3,1).
 
5. Ơn Cứu Độ
Sau Ơn Nghĩa Tử, chúng ta được Thiên Chúa ban Ơn Cứu Độ, tức Ơn giải thoát khỏi vòng kiểm tỏa của tội lỗi và sự chết muôn đời. Với tội nguyên tổ, con người như bị ném vào biển nước mênh mông, lênh đênh trôi dạt, không biết đâu là bến bờ, không có cách nào thoát khỏi bị cảnh sóng gió ba đào vùi giập. Con Thiên Chúa đuợc sai đến giữa biển trời mênh mông ấy như CHIẾC PHAO CỨU SINH giúp con người có chỗ bám víu và tìm lại sự sống:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Ghi chú: Ngoài những ơn trọng đại và cao cả kể trên, chúng ta có thể kể thêm những ơn mà Thiên Chúa ban cho mỗi người một cách khác nhau: tuồi tác, sức khỏe, tài năng, chức vụ, con cái, của cải, việc làm (phục vụ)…… mà chúng ta hiện có.
 
II. TÔN VINH TÌNH THƯƠNG CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA
Câu hỏi tự nhiên bật lên là:
Vậy chúng ta, – những kẻ chịu hết ơn này đến ơn khác từ bàn tay nhân lành của Thiên Chúa – phải làm gì, phải sống như thế nào cho phù hợp? Đức Thánh Cha Bê-nê-đí-tô XVI đã đưa ra cho chúng ta một định hướng khi Ngài xác định thế nào là Ki-tô hữu:
Là Ki-tô hữu không phải là hệ quả của một lựa chọn luân lý hay một lý tưởng cao quý, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố, một người; một cuộc gặp gỡ trao ban cho cuộc sống một chân trời mới và qua đó là một hướng đi có tính chất quyết định.” (ĐGH Bê-nê-đi-tô XVI, Thông Điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, số 1).
 
“Gặp gỡ một biến cố” là gặp gỡ Mầu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể, Giáng Sinh làm người nơi Con Trẻ Giêsu.
 
“Gặp gỡ một người” là gặp gỡ chính Thiên Chúa Nhập Thể Giáng Sinh làm người là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đi vào trần gian, đã đi vào lịch sử loài người và đã “cắm lều” ở giữa chúng ta, không chỉ ở trong sa mạc mà cả ở giữa các đô thị ồn ào náo nhiệt cũng như ở trong các bản làng nông thôn yên tĩnh.
 
“Chân trời mới” là Chân Trời của Vương Quốc mà Chúa Ki-tô đã thiết lập ở trần gian, xuyên qua mọi lục địa và thời gian, trong mọi tâm hồn và mọi cộng đồng xã hội, bằng 33 năm sống ở trần gian, bằng hoạt động rao giảng Tin Mừng và chữa lành trong 3 năm và nhất là bằng hiến tế Thập Giá trên Núi Sọ.
 
“Hướng đi có tính cách quyết định” là hướng đi theo chân Chúa Giê-su Ki-tô, hướng đi của hy sinh từ bỏ chính mình và hiến dâng cho tha nhân.
Vì thế mà chúng ta xác định được những nét cơ bản cũng là những đặc điểm của một lối sống, một cách thể hiện xứng hợp nhất để tôn vinh Tình Thương Cứu Độ của Thiên Chúa, như sau:
 
1.  Lòng biết ơn
Để tôn vinh Tình Thương Cứu Độ của Thiên Chúa, thái độ xứng hợp đầu tiên của chúng ta là thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Thể hiện qua lời nói và việc làm để cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Thiên Chúa:
“Đến muôn đời con cảm tạ Ơn Chúa.
Đến muôn đời con ngợi khen Danh Chúa.
Muôn muôn đời con ca vang Tình Thương Chúa.
Và mãi mãi con nhớ ghi Ơn Người!”(Bài ca Tạ Ơn của Lm Đa Minh Thân Trọng Hoan).
Hoặc:
“Lạy Chúa, chúng tôi tụ họp nơi đây với tư cách là Gia Đình của Chúa. Với tư cách là Gia Đình của Lòng Tin và Tình Yêu, Chúng con tạ ơn Chúa. Với tư cách là khách được mời đến dự Bàn Tiệc Sự Sống, Chúng con biết ơn Chúa vì Chúa đã dành chỗ cho chúng con. Với tư cách là con cái của Chúa, Chúng con quyết tâm theo Chúa trong mọi việc chúng con làm. Với tư cách là tôi tớ phục vụ Thánh Ý Chúa, Chúng con được ơn nhận ra Chúa là Đấng cảm thông và xót thương.Với tư cách là người quản lý của Chúa, Chúng con kinh ngạc trước các kỳ công của Chúa, Và chấp nhận trách nhiệm của chúng con là phụng sự Chúa. Với tư cách là người thừa kế của Chúa, Chúng con cảm thấy mình bất xứng với muôn vàn hồng ân mà Chúa đã ban cho chúng con. Mỗi nhịp tim và mỗi hơi thở chỉ là của chúng con nhờ hồng ân của Chúa. Và với tư cách là Gia Đình của Chúa, chúng con tung hô Danh Chúa, Và chúng con dâng lên Chúa mọi vinh quang và danh dự, mọi lời chúc tụng và tạ ơn. Amen.”
 
 
Nguyên bản tiếng Anh:
We are gathered here as Your Family, Oh Lord. As a family of faith and love, We give You thanks. As Your guests at the table of life, We are grateful that You have set a place for us.
As Your children, We strike to follow You in all we do. As servant to Your will, We acknowledge the gift of Your understanding and mercy. As Your stewards, We are filled with wonder in the presence of Your mighty deeds And accept our responsabilities in Your service. As Your heirs, We are humbled by the bounty You have given us, For each beat of our heart and each breath that we draw, is ours only through Your grace. And, as Your family, we shout Your name And give You all glory and honor, praise and thanks. Amen. [A Prayer Of Thanksgiving = Kinh Tạ Ơn] 
 
2. Sống trong/vì/cho Tình Yêu
Thái độ xứng hợp tiếp theo để tôn vinh Tình Thương Cứu Độ của Thiên Chúa, là chọn sống trong/vì/cho Tình Yêu:.
“Thiên Chúa là Tình Yêu, và hễ ai ở trong Tình Yêu thì ở trong Chúa, và Chúa ở trong người ấy” (1 Ga 4,16).
 
3. Sống tư cách là con cái tự do của Thiên Chúa, là thừa kế của Chúa Ki-tô
Sống trong/vì/cho Tình Yêu là sống tư cách là con cái tự do của Thiên Chúa và thừa kế gia tài của Chúa Giê-su Ki-tô:
“Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi! ” Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.” (Gl 3,6-7).
4. Yêu thương anh em
Sống trong/vì/cho Tình Yêu thì cũng có nghĩa là sống tình yêu thương huynh đệ với mọi người, nhất là với những người nghèo ở chung quanh chúng ta, vì mến Chúa với yêu người là một và yêu người là giới luật riêng của Chúa Ki-tô:
“Căn cứ vào điều này mà người ta phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỷ: phàm ai không sống công chính thì không thuộc về Thiên Chúa; ai không yêu thương anh em mình, thì cũng vậy.” (1 Ga 3,10).
 
“Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau.” (1 Ga 4,7-11).
 
5. Thí mạng vì anh em
Yêu tha nhân không chỉ là yêu thương bằng tình cảm xuông trên đầu môi chót lưỡi, nhưng bằng một tình yêu dấn thân và dâng hiến thật sự cho anh em, cho người khác. Mẹ Têrêxa thành Calcutta là một tấm gương sáng chói cho chúng ta noi theo trong cách sống yêu thương này:
“Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em…. Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.” (1 Ga 3,16.18).
 
KẾT
Cách mừng Lễ Chúa Giáng Sinh ý nghĩa và hoàn hảo nhất là tôn vinh Tình Thương Cứu Độ của Thiên Chúa bằng cách đem Tình Thương ấy vào thế giới và đến với con người ngày nay, vì điều mà con người cấn nhất, cái mà con người đói khát nhất chính là Tình Thương.
 
Chúng ta chỉ cần noi gương bắt chước chính Con Thiên Chúa Giáng Sinh làm người: Vì yêu nhân trần Người đã đi vào trần gian, đã chấp nhận làm một trẻ thơ yếu ớt, đã sống kiếp người mong manh, đã hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bày tỏ Tình Yêu của Thiên Chúa và để cứu vớt chúng sinh.
 
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
 
GIÁNG SINH, LỄ CỦA TÌNH THƯƠNG
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
 
Lễ Giáng sinh với cái tên phổ biến là Noel, ngày nay đã trở thành một ngày lễ của nhân loại, vì hầu như mọi người: tín hữu hay không, bằng cách này hay cách khác, đều có thể mừng lễ Noel, nhưng có một điều quan trọng rất cần được chú ý, đó là không phải bất cứ ai mừng lễ Noel đều đạt được mục đích chân chính của nó là gặp được Chúa Kitô, “Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi”(Lc 2,11).
Chúng ta có thể gọi Giáng sinh là lễ của Tình thương. Sở dĩ chúng ta có thể nói được như vậy là vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Thiên Chúa là Chúa Cả muôn loài lại hạ mình xuống mặc lấy thân xác yếu hèn của con người, bởi vì Nhập thể là một trong ba mầu nhiệm lớn nhất trong Đạo. Chúng ta có thể đưa ra nhiều lý do nhưng không có lý do nào thuyết phục hơn là Thiên Chúa yêu thương con người. Thánh Gioan Tông đồ đã nói lên lý do ấy: ”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(Ga 3,16).

Như vậy, vì yêu thương Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho nhân loại như một quà tặng. Tặng quà là một nghĩa cử cao đẹp của người tặng cho người được trao tặng, nó nói lên tình yêu của người trao tặng đối với người được trao tặng. Đức Giêsu là quà tặng vô cùng quí giá nói lên tình Chúa thương yêu nhân loại đến mức nào ! Chúng ta hãy tỏ lòng tri ân đối với Thiên Chúa trong dịp Giáng sinh này, vì Ngài đã không tiếc gì đối với thế gian đến nỗi đã hy sinh Con Một của Ngài để cứu chuộc nhận loại.
 
Đáp lại tình yêu bao la của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải trở nên quà tặng cho tha nhân vì “đã lành nhận nhưng không thì cũng phải cho đi nhưng không”(Mt 10,8). Cuộc sống sẽ luôn thi vị nếu còn mãi những nghĩa cử tặng quà. Không ai nghèo nàn đến nỗi không có gì để trao ban, trái lại, ai cũng có gì để trao tặng trong đời sống vật chất cũng như tinh thần. Lễ Giáng sinh là dịp để chúng ta thể hiện tinh thần hy sinh và dâng hiến: ”Mình vì mọi người”.
 
Nhìn lại lịch sử đã hơn 2000 năm từ ngày Chúa giáng sinh có biết bao người đã từng mừng lễ Noel, nhưng họ đã không một lần gặp được Chúa Hài Đồng, dường như họ coi lễ Noel là dịp để được nghỉ ngơi, vui chơi, mua sắm… còn mầu nhiệm Giáng sinh không liên quan gì đến họ cả. Hôm nay chúng ta hãy dừng lại để chiêm ngắm Chúa Hài Đồng và tìm ra ý nghĩa của ngày lễ: Giáng sinh là lễ của Tình thương, Chúa giáng trần không có lý do nào khác ngoài việc Chúa thương yêu nhân loại.

I. NGÔI HAI GIÁNG TRẦN VÌ YÊU THƯƠNG

1. Tội nguyên tổ và lời hứa
Nhìn ngược dòng lịch sử của con người, Thiên Chúa đã dựng nên những con người đầu tiên là Adong và Evà. Thiên Chúa đã ban cho ông bà được làm con Thiên Chúa, sống trong vườn địa đàng, được hưởng một hạnh phúc tràn đầy cả hồn lẫn xác. Tuy con người được Chúa thương như thế, nhưng cũng phải chịu thử thách để biết lòng trung thành.

Thiên Chúa cho ông bà được thoải mái hưởng dùng tất cả những gì Ngài đã dựng nên, chỉ trừ quả cây biết lành biết dữ, nếu ăn vào sẽ phải chết. Nhưng ông bà đã nghe theo lười khuyên nhủ đường mật của con rắn là ma quỉ đã cố tình ăn quả cấm đó. Ông bà đã bị phạt: mất quyền làm con Chúa, mất mọi đặc ân và sau cùng phải chết.

Sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã tuyên án ông bà phải chết trong tội, nhưng đồng thời Thiên Chúa hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế đến để cứu họ, khi lên án Satan: ”Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15).
Trước Thiên Chúa Giáng sinh 700 năm, tiên tri Isaia đã loan báo Tin mừng: ”Nghe đây hỡi nhà Đavít: các người làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa ? Vì vậy, chính Chúa thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu lạ, này đây, người trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuel”(Is 7,13-14).

Lời hứa của Thiên Chúa được lặp đi lặp lại và sau mỗi lần lặp lại lời hứa, hình ảnh Đấng Cứu Thế lại rõ nét hơn.

Trong lời hứa với vua Đavít, khi vua muốn xây đền thờ cho Chúa, Chúa cho biết Đấng Cứu Thế thuộc dòng họ Đavít: ”Khi ngày đời ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi lên kế vị ngươi, một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Đối với nó, Ta sẽ là Cha, đối với Ta nó sẽ là con”(2Sm 7,12-14).

Và trong lời hứa với vua Akhaz, Chúa đã cho biết Đấng Cứu Thế, con vua Đavít được gọi là Emmanuel, nghĩa là: ”Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Thật vậy, vào năm 735 trước công nguyên, khi thấy đất nước Giuđa bị lân bang đe dọa, vua Akhaz đã cầu viện đế quốc Assyri chứ không tin vào sự hỗ trợ của Thiên Chúa. Trong hoàn cảnh này, Thiên Chúa vẫn tỏ ra là Đấng trung tín, luôn giữ lời hứa, khi cho vua Akhaz một dấu chỉ: ”Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

2. Thiên Chúa thực hiện lời hứa
Sau 4000 năm dân Do thái sống trong đau khổ, trong khóc lóc than van, kêu xin Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân Ngài: ”Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa đấng cứu đời”. Dân chúng vẫn sống trong hy vọng và chờ đợi Thiên Chúa thực hiện lời hứa.

Dấu chỉ Thiên Chúa ban cho vua Akhaz vào thế kỷ thứ 8 trước công nguyên được thực hiện khi thời gian tới hồi viên mãn. Hy vọng mấy ngàn năm của người Do thái đã trở thành hiện thực qua sắc lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô: theo sắc lệnh ấy, toàn dân phải về quê mình khai hộ khẩu. Ông Giuse và bà Maria đang mang thai vội vàng về Be lem thi hành sắc lệnh. Vì về muộn lại không có tiền, nên hai ông bà phải qua đêm ngoài thành trong một hang chứa súc vật, và tại nơi đây “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”(Lc 2,7).

Như vậy, Hài nhi bé bỏng do Đức trinh nữ Maria sinh hạ, được cuốn tã, đặt nằm trong máng cỏ, được gọi là Emmanuel (Mt 1,23), là Con Thiên Chúa (Gl 1,4) mà hôm nay chúng ta tôn thờ, chính là Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã có từ đời đời, luôn ở với Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành và ở giữa chúng ta, để làm cho ta nên con Thiên Chúa.

Như thế, Đức Giêsu không phải là tiên tri nhân danh Thiên Chúa mà đến với chúng ta, nhưng chính là Thiên Chúa đích thân nói và cứu độ chúng ta. Nhìn vào cuộc đời Đức Giêsu, chúng nhận thấy Thiên Chúa ở rất gần con người để gặp gỡ, thiết lập quan hệ ngay tại nơi con người đang sinh sống. Thiên Chúa tạo quan hệ để con người có thể trao đổi với Người. Thiên Chúa tự liên đới với con người, tự ràng buộc vào số phận con người, nhờ đó Thiên Chúa cứu được con người.

3. Lý do việc Thiên Chúa giang trần: Tình thương
Chúng ta thắc mắc đặt câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa lại giáng trần trong hoàn cảnh bi đát như vậy ? Chắc chúng ta cũng kiếm ra được một số lý do, nhưng lý do có sức thuết phục nhất là vì Chúa yêu thương nhân loại.

Công đồng Vatican II, trong Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” đã cho chúng ta biết: ”Thiên Chúa nhập thể và nhập thế là vì Ngài muốn sống cuộc sống nhân loại, để hành động với bàn tay nhân loại, để suy tư với một trí óc nhân loại, để yêu thương với một trái tim nhân loại”(Gaudium et Spes, số 22). Như vậy, Chúa nhập thể và nhập thế chỉ vì Chúa yêu thương con người

Nói đến tình yêu là nói đến gặp gỡ và chia sẻ. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã xuống thế để gặp gỡ con người hầu cho đất trời gặp nhau, để Thiên Chúa làm người và con người trở nên Thiên Chúa ! Ngài đến để cùng chia sẻ kiếp sống với con người để Ngài cùng vui cùng buồn, cùng sướng cùng khổ với chúng ta để đem lại cho cuộc sống chúng ta một ý nghĩa.

Chúng ta hãy nghe thánh Augustinô nói về mầu nhiệm tình yêu này: ”Vì các bạn mà Thiên Chúa đã làm người. Các bạn sẽ phải chết muôn đời, nếu Ngài đã không sinh ra trong thời gian. Các bạn sẽ chẳng bao giờ được giải thoát khỏi xác thịt tội lỗi, nếu Ngài không chấp nhận mang xác thịt tội lỗi của các bạn. Các bạn sẽ chẳng tìm được sự sống, nếu Ngài đã chẳng chết như các bạn. Các bạn sẽ phải tiêu vong, nếu như Ngài không đến”.

Nói tóm lại, Thiên Chúa yêu thương con người nên đã làm người. Đấng làm người ấy mang tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài đã đến để gặp gỡ, để chung sống, để đồng hành, để chia sẻ cuộc đời với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã trở thành anh em với nhân loại, không những để cùng suy tư, hành động với con người, nhưng còn để hướng dẫn những suy tư và hành động của con người tới sự hoàn thiện của Thiên Chúa.

II. ĐỨC GIÊSU, QUÀ TẶNG CHO NHÂN LOẠI
Lễ Giáng sinh là ngày mừng biến cố Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Nhưng Giáng sinh cũng là ngày lễ của quà tặng. Đây là dịp cuối năm người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, những món quà. Kèm theo những món quà người ta còn gửi đến cho nhau những thông điệp chúc mừng. Quà tặng chuyên chở tấm lòng yêu thương của người tặng. Có những món quà đơn sơ nhỏ bé. Có những món quà mà người ta phải tốn một số tiền lớn để mua nó. Một quà tặng được chuyển đi là dấu hiệu người ta còn nhớ đến nhau. Bạn bè tặng quà cho nhau, những người yêu tặng quà cho nhau, cha mẹ tặng quà cho con cái, món quà sẽ vô nghĩa nếu không có người tặng.

Trong lễ Giáng sinh hôm nay, chúng ta nói đến một món quà tặng khác giá trị hơn. Quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Thật vậy, Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại: ”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(Ga 3,16). Ngài đem đến cho chúng ta một thông điệp vàng từ Thiên Chúa, là Thiên Chúa mãi trung thành yêu thương con người, cho dù con người có từ khước Ngài.

Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa đến cho mọi người để Ngài trở nên Emmanuel, để Ngài luôn hiện diện mà chia sẻ thân phận con người với chúng ta. Từ ngữ Present tiếng Anh có nghĩa là “quà tặng”, lại có nghĩa là “sự hiện diện”. Mỗi người bằng sự có mặt của mình ở nơi cần đến, đã là món quà giản dị dành tặng cho nhau.

Nhân vật trung tâm của lễ Giáng sinh hôm nay là một trẻ thơ vừa mới sinh. Một trẻ thơ như bao trẻ thơ khác trên trần thế. Một trẻ thơ bình thường sinh trong một gia đình êm ấm hạnh phúc, có cha mẹ, bà con gia tộc và quê hương đất nước. Phần lớn trong số họ chỉ là nghững người nghèo nhất trong xã hội. Thế mà họ được đón nhận một Tin mừng lớn lao của toàn thể nhân loại. Họ vinh dự đón nhận quà tặng của Thiên Chúa: ”Hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em, trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô là Đức Chúa”(Lc 2,11).

Nhân loại hãy nhìn vào Tình yêu trong mầu nhiệm Nhập thể để học lấy cho mình bài học quí giá: Thiên Chúa đã phó mình cho trần gian. Vì nơi Thiên Chúa, yêu là tự hiến, là hủy mình. Có hiểu hết sự tự hiến và hủy mình vì yêu thương trong mầu nhiệm Nhập thể, chúng ta mới có thể hiểu được làm sao một vì Thiên Chúa cao sang là thế, uy quyền là thế, mạnh mẽ và lớn lao khôn cùng, lại có thể hóa nên một con người bé nhỏ, yếu ớt, mong manh như vậy. Có hiểu được một tình yêu tự hiến đến mức hủy mình, ta mới hiểu được làm sao Thiên Chúa lại trở nên trần trụi và nghèo nàn đến thế. Và Hài nhi Giêsu này sẽ tiếp tục hy sinh trên thập giá để cứu rỗi nhân loại.

Truyện: Xin vì đứa trẻ vô tội nay.
Lịch sử truyền giáo viễn đông có kể rằng: Khi đề đốc Magellan dẫn một đạo thuyền đi về viễn đông thì gặp nạn. Một trận cuồng phong đánh chìm tất cả đạo thuyền, chỉ còn lại con thuyền của đề đốc đang bồng bềnh chống chọi với ba đào sóng gió. Trên thuyền mọi người thủy thủ và hành khách đã họp lại tất cả trên cầu tầu để chờ chết.

Đứng giữa đoàn người thất vọng, đề đốc Magellan như có một ơn soi sáng, ông nhìn thấy bên cạnh có một bà mẹ ẵm một đứa con thơ ấp ủ trên lòng. Đề đốc xin bà mẹ cho mình đứa con. Rồi ông cầm đứa bé trong tay giơ lên, mắt ngước về trời và nói: ”Lạy Chúa, con và đoàn người đây đều là kẻ tội lỗi đang chết chìm trong vực thẳm này. Nhưng xin Chúa vì đứa trẻ vô tội này mà tha thứ cho chúng con”. Lịch sử kể lại rằng, khi cầu nguyện xong câu đó thì gió yên và biển lặng.
 
III. CHÚNG TA LÀ QUÀ TẶNG CHO THA NHÂN
Mầu nhiệm nhập thể chỉ có thể hiểu được qua Tình yêu. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã làm người. Ngài thấu hiểu nỗi khao khát một Đấng Cúu thế của dân tộc Israel. Bao nhiêu năm trời mong đợi, hôm nay Đấng Cứu thế đã giáng sinh. Đức Giêsu là quà tặng vô giá của tình yêu Thiên Chúa gửi đến cho con người. Quà tặng mang tên Giêsu trải qua hơn 2000 năm đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đức Giêsu đang đến với con người hằng ngày từng giây từng phút của đời sống vượt qua không gian và thời gian.
Đón nhận quà tặng vô giá là chính Chúa Giêsu, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa đích thực của quà tặng. Theo gương Chúa Giêsu chúng ta cũng phải là quà tặng cho anh em mình.

Trong dịp lễ Giáng sinh chúng ta thường mua những món quà đắt tiền để tặng nhau, tuy nhiên giá trị của quà tặng lại tùy thuộc vào tấm lòng của người tặng quà. Người ta thường nói: ”Vật khinh nhưng hình trọng” hoặc “Của một đồng công một nén”(Tục ngữ). Chân phước Têrêsa Calcutta nói: ”Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.

Trong kho tàng văn chương Việt nam, người ta đã nói lên ý tưởng trao ban trong Ca dao:
Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay.
Tình yêu không phải là một cuộc trao đổi có tính toán sòng phẳng, sao cho đôi bên cùng có lợi, mà là một sự chia sẻ vô vị lợi; hay nói đúng hơn, là một sự trao tặng, dâng hiến.
Ông Lézard nói: ”Yêu… Bạn có biết từ ấy có nghĩa gì không ? Có bao nhiêu cách yêu, nhưng duy chỉ có một là tốt. Đó là trao ban, và trao mãi, mà không lấy lại gì, không chờ đợi gì, không xin xỏ gì. Đó là cách phải yêu”.

Ông Roger Godel cũng nói: ”Tình yêu đích thực sở dĩ nhận được là nhờ nơi dấu hiệu không bao giờ sai lầm này: nó dâng tặng mà không hề mong nhận được cái gì cả”.

Cuộc sống sẽ luôn thi vị nếu còn mãi những nghĩa cử tặng quà. Cũng như cuộc sống không thể vắng bóng tinh thần trao ban. Đó có thể là chúng ta biết dành thời giờ để thăm hỏi, gặp gỡ bà con thân thuộc, người cùng khu xóm và bạn bè. Khi chúng ta biết rộng lòng giúp đỡ vật chất cho những người nghèo, những nạn nhân của thiên tai lũ lụt. Khi chúng ta biết tặng cho những người mình yêu như cha mẹ, anh em, bạn bè, người yêu những món quà bất ngờ thắm thiết tình người.

Truyện: Món quà giáng sinh
Một đôi vợ chồng trẻ, Gim và Đêla, tuy nghèo tiền của nhưng giầu tình thương đối với nhau.

Giáng sinh sắp tới, Đêla tự hỏi phải tặng Gim món quà gì đây. Nàng muốn tặng chàng sợi dây cho chiếc đồng hồ của chàng, nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì thế nàng nảy sinh một sáng kiến. Nàng có một bộ tóc dài rất đẹp, nàng rất quí nó và rất hãnh diện về nó. Nàng quyết định cắt ngắn bộ tóc và đem bán để mua cho Gim sợi dây đồng hồ.

Hôm áp lễ Giáng sinh, từ phố về nàng cầm trong tay một chiếc hộp rất đẹp đựng sợi dây đồng hồ mạ vàng mà nàng vừa sắm được bằng mái tóc của mình. Bỗng nhiên Đêla cảm thấy lo lắng. Nàng biết Gim rất quí bộ tóc dài của nàng. Nàng tự hỏi không biết Gim có buồn vì nàng cắt và bán nó đi không ?

Về tới nhà, Đêla mở cửa và thấy Gim đang đợi nàng. Tay chàng cầm một cái hộp thật đẹp đựng món quà chàng mới mua cho nàng. Khi nhìn thấy mái tóc ngắn của vợ, Gim như muốn khóc, nhưng chàng không nói gì cả. Cố trấn tĩnh, chàng trao tặng nàng chiếc hộp xinh xắn. Mở hộp ra, Đêla rất đỗi bàng hoàng. Trong hộp là một bộ lược chải tóc bằng xà cừ rất đẹp. Còn chàng, khi mở món quà vừa nhận được từ tay vợ, Gim cũng ngỡ ngàng không kém.

Chính lúc đó, Đêla mới nhận ra rằng Gim đã bán chiếc đồng hồ vàng, món đồ quí nhất của anh, để mua lược chải tóc cho nàng. Phút chốc cả hai đều hiểu rằng họ đã tặng nhau những gì quí giá nhất, họ đã hy sinh tất cả cho nhau (Wahrreit, Món quà Giáng sinh, tr 9-10).

Chúng ta có thể nói: Giáng sinh là lễ của tình thương. Thánh Anphonsô cũng nói: ”Lễ Giáng sinh là lễ của Tình thương”. Và thánh nhân cả tuần ngồi ăn cơm dưới đất. Còn thánh Phanxicô Khó khăn thì trong một lễ Giáng sinh đã quì trước hang đá cầu nguyện. Ngài cảm thấy tâm hồn tràn ngập tình yêu mến. Không chịu được, ngài chạy ra các đường phố Assisi và kêu lên: ”Anh chị em hãy yêu mến Chúa Hài Đồng, hãy yêu mến Chúa Hài Đồng”.

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng ! Đêm nay Chúa sinh ra làm người là một tin mừng trọng đại cho toàn nhân loại. Đứng trước Mầu nhiệm Nhập thể chúng con chỉ biết cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Chúa. Vì tình Chúa yêu thương nhân loại là vô bờ bến thì làm sao chúng con có thể diễn tả bằng lời. Xin Chúa dạy chúng con biết trao ban cuộc sống cho tha nhân theo gương Chúa, để suốt cuộc đời chúng con biết sống mình vì mọi người và vì ích chung, ngõ hầu xứng đáng là những người được Chúa cứu chuộc.. Amen.
 
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
 
 
NGÔI LỜI ĐÃ HÓA THÀNH NHỤC THỂ
R. Veritas 
 
Lễ Giáng Sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Thực thế, chưa có một cuộc lễ nào trong lịch sử nhân loại đã là nguồn cảm hứng dồi dào về âm nhạc cho bằng Lễ Giáng Sinh. Ðã có vô số những bài ca bất hủ về Giáng Sinh và mãi mãi sẽ còn những bài ca bất hủ về Giáng Sinh nữa.
 
Kỳ thực, Lễ Giáng Sinh cũng là một bản nhạc bất hủ của Thiên Chúa dành cho con người. Nếu âm nhạc là sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và sự thinh lặng, thì mầu nhiệm của Thiên Chúa làm Người cũng chính là một thứ âm nhạc. Thánh Gioan Tông Ðồ đã chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, người đã sống hòa hợp trong mầu nhiệm ấy và đã diễn tả bằng một câu nói ngắn gọn như sau: “Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể”.
 
Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể nghĩa là Ngài đã trở thành một người như chúng ta. Ngài đã nói ngôn ngữ của xứ sở và thời đại của Ngài, Lời Ngài đã được ghi chép lại và quảng bá trên khắp thế giới từ 2,000 năm. Lời ấy đã được dịch ra trên 5,000 thứ ngôn ngữ khác nhau trên thế giới, và những Lời ấy đã thành ánh sáng và thức ăn cho tất cả nhân loại. Thế nhưng, trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, trước khi mở miệng để lại cho chúng ta những lời vàng ngọc thì Chúa Giêsu đã sống trong thinh lặng. Thinh lặng trong hang đá Belem và nhất là thinh lặng trong suốt ba mươi năm tại Nazareth.
 
Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là Lời đã hóa thành nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao thế? Thưa là bởi vì Ngài không chỉ nói với chúng ta bằng lời nói mà Ngài còn muốn nói với chúng ta bằng cả sự thinh lặng, hơn nữa Ngài còn muốn nói với chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài nữa.
 
Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng: Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở nên thiết thân với mọi người và mỗi một người được sinh ra. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Sự sống của con người là một thánh thiêng bất khả di nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Mỗi một người sinh ra trong thế gian này dù có xấu xa, thấp hèn, mạt rệp đến đâu cũng đều được đóng ấn tình yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống thinh lặng, lam lũ nghèo hèn của Ngài, cũng như qua những kết thân của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.
 
Anh chị em thân mến!
Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây 2,000 năm, sự hiện hữu của Ngài là một sự hiện hữu giới hạn, giới hạn trong không gian, giới hạn một cách sống, một thời đại. Chúa Giêsu đã không hề làm một người cha trong gia đình, thế những cuộc sống Nhập Thể làm Người của Ngài không hề chấm dứt với cái chết của Ngài như một bản nhạc bất hủ. Mầu nhiệm Ngôi Lời hóa thành nhục thể vẫn tái diễn trong dòng lịch sử của nhân loại. Và lễ Giáng Sinh mà chúng ta cử hành hằng năm không chỉ đến mỗi năm có một lần, nhưng tiếp tục được cử hành trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.
Thật thế, có lễ Giáng Sinh là khi chúng ta để Ngài sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có lễ Giáng Sinh là khi chúng ta để cho Lời Ngài thấm nhập vào cuộc sống của chúng ta và biến đổi chúng ta. Có lễ Giáng Sinh là khi chúng ta tiếp tục nhận ra ý nghĩa của cuộc đời này, cho dù chúng ta phải trải qua không biết bao nhiêu đắng cay chua xót trong cuộc sống này. Có lễ Giáng Sinh khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao quí của Thiên Chúa trong mỗi người anh em, và có lễ Giáng Sinh khi chúng ta làm một nghĩa cử cho anh em của chúng ta. Như vậy bài Thánh Ca Mừng Chúa Giáng Sinh không chỉ được cất hát lên mỗi năm có một lần, mà phải là khúc hoan ca trong từng giây phút của cuộc sống chúng ta.
 
Nguyện xin Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể cũng tiếp tục nhập thể trong tâm tư suy nghĩ, hành động và trong cư xử của chúng ta để mỗi người chúng ta bằng lời nói hay bằng chứng tích thinh lặng, chúng ta trở thành lời cho mọi người, chúng ta trở thành âm nhạc cho mọi người. Amen.
 
R. Veritas 
 
 
NGÔI LỜI LÀ ÁNH SÁNG THẬT
Manna 
X LỜI CHÚA:  Ga 1,1-18
1 Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. 2 Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. 3 Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. 4 Ðiều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. 5Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.
6 Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan.
7 Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 8 Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. 9 Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. 10 Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. 11 Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. 12 Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. 13Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa.
14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. 15 Ông Gioan làm chứng về Người, ông tuyên bố: “Ðây là Ðấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” 16 Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. 17 Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Ðức Giêsu Kitô mà có. 18 Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
 
X SUY NIỆM
Máng cỏ luôn làm cho chúng ta rúng động, vì đứng trước máng cỏ là đối diện với một Tình Yêu, một Tình Yêu mở ra bao la bát ngát.Cha đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người. Con đã mở ra bằng cách vâng phục ý Cha. Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi lòng Ðức Trinh Nữ. Máng cỏ giúp ta gặp được Tình Yêu của Ba Ngôi, Tình Yêu không lùi bước trước sự khép kín của nhân loại.
 
Ðến Bêlem, chúng ta bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn. Thiên Chúa đã cúi xuống để tặng trao cho con người. Con Thiên Chúa làm người sinh nơi hang súc vật, không một chút hào quang: Ngài sinh ra trong đêm tối; không một chút quyền lực: Ngài là trẻ thơ khóc oe oe. Ðấng siêu việt nay chịu giới hạn bởi thời gian. Ðấng Tuyệt Ðối lại mang một thân xác hữu hạn. Tình Yêu khiêm tốn không làm chúng ta bị choáng ngợp. không ban bố một cách cha chú, nhưng biết gõ cửa và chờ đợi. Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giàu có (2Cr 8,9).
 
Gần hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (Ga 1,9). Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19). Bóng tối ở ngoài tôi và bóng tối ở trong tôi. Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,11).
 
Ðức Giêsu còn phải nhập thể cho đến tận thế. Truyền giáo là làm cho Ngài được sinh ra ở đây, hôm nay, trong dòng văn hoá truyền thống của dân tộc, trong những biến chuyển của đất nước thời mở cửa, trong thế giới đã bước qua năm 2000. Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác, đón nhận Ðức Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho thế giới. Cuộc sinh hạ nào cũng bắt trắc và đau đớn. Xin thắp lên một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời. Xin gom lại trăm triệu ngọn nến để đẩy lui bóng tối trên mặt đất.
 
X GỢI Ý CHIA SẼ

  • Ngôi Lời đã làm người và đã sống ở đời. Mầu nhiệm Nhập Thể có làm bạn yêu đời và yêu phận người của bạn hơn không?
  • Làm sao để Chúa Giêsu được sinh ra trong môi trường bạn đang sống?

 
X CẦU NGUYỆN
Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa. Giữa những long đong và bấp bênh của phận người, xin cho con gần Chúa. Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi, xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
 
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ, xin cho con cảm được sự bình an của Chúa, ngay giữa những âu lo hàng ngày. Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không như ý. Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa vì Chúa đã dám sống như con.
 
Manna 
 
 
 
 
 
ĐẤNG CỨU THẾ ĐÃ RA ĐỜI
Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14
Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm 
PHÚA ÂM: Lc 2, 1-14
“Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”.
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
 
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
 
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”.
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
 
SUY NIỆM:
Hết thảy chúng ta hãy mở lòng đón nhận lời chúc mừng lễ Chúa Giáng Sinh, mà Thiên Chúa vừa gửi đến trong câu cuối cùng bài Tin Mừng. Phải có sự bình an của Chúa mới hiểu được ngày lễ hôm nay; và nhất là mới nhận được nhiều ơn của Chúa Giáng Sinh.
 
Thật vậy, chúng ta muốn mừng lễ này thật long trọng, nhưng vẫn phải đứng trước một máng cỏ nghèo nàn; Chúng ta muốn trang hoàng hang đá này thật lộng lẫy, nhưng vẫn thấy Chúa sinh ra thật đơn sơ. Dường như có một sự nghịch thường sâu sắc trong việc Chúa Giáng sinh và trong thánh lễ này. Và nếu không nhận được sự bình an của Chúa, lòng chúng ta không thể nào thấm thía được mầu nhiệm Giáng sinh.
 
Tuy nhiên cũng phải nói ngược lại, có hiểu được ý nghĩa của ngày lễ hôm nay, chúng ta mới đón nhận được lời chúc bình an quý hóa của Thiên Thần. Là vì đối với tất cả những việc có hệ đến Thiên Chúa phải có ơn Người giúp đỡ thì người ta mới hiểu được! Và khi hiểu được, người ta mới nhận được đầy đủ ơn của Người.
 
Thế nên chúng ta cầu xin ơn bình an của Chúa để nhờ các bài đọc Thánh Kinh tìm hiểu việc Chúa Giáng sinh; để rồi nhờ đó chúng ta được thêm ơn bình an là nguồn mọi ơn cao cả khác mà Chúa Giáng sinh muốn ban cho tất cả chúng ta trong dịp này.
 
1. Một Trẻ Ðã Sinh Ra
Chúng ta tự nhiên muốn nhìn thẳng vào hang đá máng cỏ để tìm hiểu việc Chúa Giáng sinh. Nhưng nếu làm như vậy, chúng ta sẽ liều chẳng nhìn thấy gì cả, hay chẳng nhìn được bao nhiêu. Cùng lắm, như một cái máy vô hình, mắt chúng ta sẽ thấy một hài nhi vừa sinh, được bọc trong khăn và nơi máng cỏ, có hai ông bà ở gần mà người ta nghĩ là cha mẹ hài nhi. Rồi có may mắn nhất thì người ta cũng chỉ còn xem thấy một đám mục đồng đến ngó xem cảnh tượng đản sinh khác thường này.
 
Phải, nếu không được hướng dẫn trước, người ta chỉ nhìn thấy có bấy nhiêu. Và cảnh tượng xem thấy sẽ gợi lên nhiều nhất vài cảm nghĩ tự nhiên hoặc thương hại một gia đình khó nghèo, hoặc có cảm tình với em bé vừa sinh. Chẳng có gì độc đáo và quan trọng lắm trong tất cả những điều đã mắt thấy, tai nghe và cảm nghĩ như vậy.
 
Nhưng nếu nhìn quang cảnh đản sinh kia trong tất cả lịch sử cứu độ, nếu đọc chuyện Ðức Giêsu giáng sinh trong toàn bộ Cựu và Tân Ước, chúng ta sẽ thấy mọi sự trở nên khác hẳn. Ðây vừa là kết quả của nhiều nghìn năm lịch sử chuẩn bị, vừa là khởi sự của nhiều thời đại về sau. Phụng vụ chọn lúc nửa đêm để cử hành thánh lễ này cũng có ý nói lên niềm tin ấy. Việc Ðức Giêsu Giáng sinh kết thúc đạo cũ và khai mạc đạo mới.
Thế nên chúng ta phải nhờ tiếng nói của đạo cũ dẫn tới hang đá máng cỏ và nhờ tiếng nói của đạo mới để nhận ra ý nghĩa của cuộc đản sinh này.
 
Hôm nay, tiếng nói của đạo cũ là một bài sách Isaia. Nhà tiên tri này sống trước sự kiện lịch sử chúng ta kính nhớ hôm nay những 600 năm. Thế mà lời của ông có vẻ rất thích hợp với việc đản sinh của hài nhi thành Bêlem. Sự thật, bấy giờ ông đang sống ở một thời đại rất bấp bênh của lịch sử dân Chúa. Nhiều tỉnh trong nước Do Thái đã bị đế quốc Assyri xâm chiếm và tàn phá. Dân chúng như phải đi trong tối tăm. Ở các tỉnh còn lại người ta lo sợ như đang sống trong sự hãi hùng của tử thần. Và triều đình Do Thái lúng túng cãi cọ chẳng biết nên cầu viện và liên minh với lực lượng ngoại bang nào.
 
Chính lúc đen tối sợ hãi ấy, nhà tiên tri đã lên tiếng. Ông chẳng nói gì khác niềm tin, niềm tin cổ truyền vào lòng trung tín của Thiên Chúa sẽ giữ lời giao ước. Người sẽ chẳng bỏ dân cho dù dân bất nghĩa. Tình trạng hiện nay cho thấy Người đang phạt họ, nhưng rồi Người sẽ thương, sẽ cứu. Bấy giờ, dân đi trong tăm tối đã nhìn thấy một ánh sáng lớn. Trên những kẻ ở xứ âm u, một ánh sáng đã rạng ngời.
 
Ðức tin của nhà tiên tri vững vàng đến nỗi, sự việc sẽ xảy đến trong tương lai mà ông như đã nhìn thấy rồi. Ông thấy ơn cứu độ đã đến cho dân Chúa đang tối tăm mặt mũi vì hoạn nạn đau khổ và đang hãi hùng trong tình hình âm u. Ơn cứu độ ấy như một ánh sáng lớn đến xua đuổi tối tăm và âm u. Hơn nữa đó là một Hoàng đế cứu tinh vĩ đại, vì người Ðông phương vẫn quen ví bậc vua chúa như mặt trời và ánh sáng.
 
Với sự xuất hiện của ánh sáng ấy và của vị Hoàng đế ấy, Chúa ban cho dân được niềm vui lớn, như khi được mùa và như khi đại thắng.
 
Biết rằng dân đang khao khát một cuộc chiến thắng, nhà tiên tri dừng lại ở đây để quảng diễn ơn Chúa cứu độ như một cuộc thắng trận chưa từng thấy. Không những mọi ách xâm lược, mọi thồ trên vai, một roi đốc công sẽ bị đập tan tành, mà giầy trận chiến bào sẽ bị đốt tàn rụi, để không bao giờ còn chinh chiến đổ máu nữa. Isaia đã dùng hình ảnh ngày chiến thắng quân Mađian kể trong sách Thẩm phán (c. 7-8) để so sánh vừa để nói lên tính cách đại thắng, vừa để khẳng định đó là việc do quyền năng Chúa làm cho kẻ yếu đuối khiêm cung. Hơn nữa, chiến thắng ở Mađian đã dẫn đến ý kiến muốn có một triều đại, một vị hoàng đế thay thế chế độ thẩm phán. Isaia hẳn đã muốn gợi lại câu chuyện này để giới thiệu vị Hoàng đế cứu tinh mà Thiên Chúa sẽ gởi đến cho dân, như trên kia ông đã dùng hình ảnh ánh sáng để nói đến nhà Vua sắp xuất hiện.
 
Là vì theo Isaia, Thiên Chúa sẽ giải cứu dân lần này nhờ một vị hoàng đế mới. Lời văn có vẻ mô tả việc đản sinh của Ngài vì tác giả viết: Một trẻ đã sinh ra cho ta… Vai Ngài, đỡ lấy quyền bính. Nhưng thật sự Isaia muốn nói đến ngày Ngài lên Ngôi, mà các dân Ðông phương vẫn coi là ngày sinh ra một triều đại, một vị vua mới. Và cũng chính trong ngày lên ngôi báu mà nhà Vua công bố tước hiệu Ngài đã chọn. Ở đây, Isaia gán cho vị hoàng đế cứu tinh mọi danh xưng quý hóa nhất đối với lòng người dân Chúa. Ngài là Mưu sư kỳ lạ, vì có khôn ngoan siêu việt như Salômon; Ngài là Thần anh hùng vì có sức mạnh siêu phàm như Ðavít; Ngài là Cha đời đời, như chính Thiên Chúa. Ngài là Vua bình an như Ðấng Thiên Sai muôn dân trông đợi.
 
Chúng ta có thể tự hỏi: sao Isaia không nói thêm một danh xưng nữa cho đủ năm danh xưng theo kiểu các Hoàng đế Ai Cập thời bấy giờ? Hay là ông muốn nhắc chúng ta nhớ lại điều ông đã viết trước đây trong chương 7. Trẻ đã sinh ra cho ta đó có tên là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Dù sao những điều ông viết tiếp theo về vị hoàng đế cứu tinh có quyền bính bao la và bình an vô tận trên ngai Ðavít, cũng như làm cho đất nước được kiên cố nhờ công minh đức nghĩa đến muôn đời, làm chúng ta nghĩ rằng vị hoàng đế phải siêu phàm, gần như, nếu không phải là giống như Thiên Chúa.
 
Như vậy, bài tiên tri Isaia hôm nay ít nhất đã loan báo cho chúng ta biết: trẻ sinh ra cứu đời sẽ là một vị hoàng đế mới, đến chấm dứt chiến tranh đau khổ và thiết lập thời đại hòa bình đức nghĩa. Chắc chắn chẳng một vị vua Do Thái nào đã tỏ ra xứng đáng với lời tiên tri ấy. Và do đó, dân Cựu Ước đã đặt tất cả hy vọng vào Ðấng Thiên Sai cứu thế sau này. Hôm nay, Hội Thánh chúng ta nói rằng Ngài đã đến nơi hài nhi thành Bêlem. Có thể như vậy được không. Trẻ mới sinh được bọc trong khăn đặt nằm nơi máng ăn của súc vật là hoàng đế cứu tinh ư? Bề ngoài không thể như vậy, nhưng thật sự lại là thế. Ðó là điều mà bài Tin Mừng Luca hôm nay muốn khẳng định với chúng ta. Chúng ta hãy tìm hiểu.
 
2. Ðấng Cứu Thế Ðã Ra Ðời
Bản văn được cấu tạo với hai phần rõ rệt. Phần đầu như mô tả một cách chân thực việc sinh ra khó nghèo của hài nhi; còn phần sau nói đến vinh quang cao cả của Ngài. Những ai quen đọc Thánh Kinh có thể thấy ngay đó cũng là một lối trình bày mầu nhiệm Tử nạn và phục sinh. Và nhà thần học thâm thúy có thể nói rằng tác giả Luca đã muốn diễn tả bản tính nhân loại và bản tính Thiên Chúa nơi hài nhi vừa sinh.
 
Câu mở đầu rất ý nghĩa: “Trong những ngày ấy, Hoàng đế Augustô ra sắc chỉ ban hành lệnh kiểm tra toàn thể thiên hạ”. Dĩ nhiên Luca muốn tỏ ra mình là một sử gia, viết chuyện có niên hiệu chắc chắn. Nhưng không phải vô cớ mà ông đã không viết đích danh Hoàng đế là Octavô, mà chỉ ghi tước hiệu của Ngài là Augustô, một danh xưng xực mùi tự phụ coi mình là thiên tử. Luca muốn nói rằng bấy giờ thiên hạ chỉ biết Hoàng đế là nhất, không còn ai trên Ngài nữa. Ngài đang ra lệnh cho toàn thể thiên hạ. Luca quá biết, đế quốc La Mã cho dù rất lớn vẫn không phải là cả thiên hạ. Và lệnh kiểm tra cũng chỉ hạn chế trong một số tỉnh nào thôi. Nhưng Luca muốn cho chúng ta một ấn tượng: thế giới bấy giờ đang ở dưới quyền một người. Quyền bính của ông thật lớn, đến nỗi ông tưởng mình là Augustô (thiên hoàng). Và như vậy hài nhi sắp sinh sẽ là gì ở trong thế giới và ở trước mặt vị hoàng đế ấy?
 
Trẻ mới sinh chẳng là gì cả, chúng ta có thể nói được như vậy. Ðến như cha mẹ hài nhi cũng thế. Giuse bấy giờ chỉ là người thuộc xứ Galilê ở Nazaret, là những địa danh chỉ gợi lên lòng khinh bỉ của người Do Thái vì đó là những nơi đầy dân ngoại khác hẳn với xứ Giuđê thành Giêrusalem là các trung tâm của tôn giáo mạc khải. Còn ai biết Giuse là dòng họ Ðavit và có gốc gác ở Bêlem nữa? Maira chỉ là một bà đang thai nghén trên đường về quê khai lý lịch. Hai người đã không tìm được chỗ trọ trong quán; mà buổi lâm bồn của Maria thì đã đến. Họ phải đưa nhau ra một hang súc vật ngoài đồng vắng. Và sinh con rồi, Maria bọc trẻ đem đặt nơi máng ăn của súc vật, báo trước sau này lớn lên Ðức Giêsu sẽ chẳng có nơi gối đầu.
 
Chúng ta chẳng cần đi thêm vào chi tiết. Rõ ràng hài nhi đã sinh ra rất khó nghèo. Chưa ai đã sinh ra trong một hoàn cảnh như thế. Gioan Tẩy Giả vị tiền hô của Chúa, đã ra đời trong cảnh “trướng rũ màn che” hạnh phúc hơn nhiều. Ấy là chưa kể cái lịnh kiểm tra của Hoàng đế, diễn tả uy quyền của ông, như đang đè xuống nơi máng cỏ nghèo hèn này.
 
Tuy nhiên trên nền ảnh mờ tối kia của cảnh hang đá máng cỏ, Luca cũng đã điểm những chấm sáng không thể bỏ qua. Ðó là dòng máu Ðavit trong con người Giuse; là tư cách “đính hôn” của Maria, tức là sự cưu mang đồng trinh của Người; và là điểm Con đầu lòng nói về hài nhi. Luca quá biết hài nhi là Con Một của Maria; nhưng từ ngữ “Con Một” đã có một công dụng khác trong ngữ vựng Kitô giáo. Nó dùng để nói Chúa Giêsu là Con Một của Thiên Chúa. Ở đây Luca dùng kiểu nói “Con đầu lòng” để làm âm vang truyền thống đạo đức của Thánh Kinh, bởi vì nơi dân Do Thái, mọi con đầu lòng đều thuộc về Chúa để nhớ ơn Người đã cứu con cái Israen khi các con đầu lòng của người Ai Cập bị sát hại. Ðàng khác từ ngữ “Con đầu lòng” còn dùng để nói về toàn thể dân Chúa là con đầu lòng giữa mọi dân nước mà Chúa đã dựng nên. Nó cũng gợi đến mầu nhiệm phục sinh sau này vì Chúa sống lại là “trưởng tử” giữa các vong nhân.
Và như vậy trong cuộc đản sinh khó nghèo nơi máng cỏ, đã có những điểm sáng lớn chờ ngày rực lên át hẳn vẻ huy hoàng của thế gian, biểu hiện nơi uy quyền của hoàng đế Augustô trong câu chuyện này.
 
Tác giả Luca hôm nay muốn báo trước thời đại rực rỡ của Hài nhi trong phần sau của bài tường thuật. Thiên Thần Chúa bỗng đã hiện đến bên đám mục đồng đang canh giữ chiên lúc đêm khuya. Lập tức họ được bọc trong ánh sáng của vinh quang Chúa. Sự cao cả của Người đã “chụp” lấy họ khiến họ hãi hùng, không phải sự hãi hùng làm họ có thể chết đi, nhưng là sự hãi hùng kéo họ ra khỏi nếp sống tầm thường và đưa họ lên thế giới siêu việt. Thế nên họ đã được trấn an tức khắc: “Ðừng sợ, này ta đem tin vui cho các ngươi về một niềm vui to lớn, tức là niềm vui cho toàn dân…” Trong ngôn ngữ của Thánh Kinh, những lời này chỉ được dùng để loan báo ơn cứu độ.
 
Quả vậy, niềm vui cho toàn dân chỉ có thể là sự giải cứu mà các tiên tri từng loan báo, là lời hứa mà bài sách Isaia trên kia chẳng hạn khẳng định rằng sẽ thực hiện trong ngày Chúa viếng thăm dân Người. Hôm nay, niềm vui ấy đã đến vì Cứu Chúa đã sinh ra. Ngài là Ðức Kitô Chúa. Ngài vừa sinh trong thành của Ðavít.
 
Ðám mục đồng có hiểu được những lời ấy không? Hài nhi được giới thiệu không những là Cứu thế và là Kitô, những danh xưng đã quen thuộc trong Cựu Ước; nhưng còn là Chúa nữa. Danh xưng này phải đợi sau mầu nhiệm Phục sinh – Lên trời – Hiện xuống mới gặp thấy nơi các tín hữu của Chúa Giêsu. Họ chúc tụng Ngài là Kitô và là Chúa. Họ tuyên xưng Ðức Kitô bây giờ là Chúa ở bên hữu Thiên Chúa Cha. Và với danh hiệu này, Ngài vượt trên hết mọi loài dưới đất và trên trời. Tước hiệu Augustô bấy giờ còn có nghĩa gì nữa đâu!
 
Sự cao cả của Hài nhi là ở chỗ đó. Ngài là Chúa, tức là Thiên Chúa. Thiên Thần đã công bố tước hiệu của Ngài ngay hôm nay khi Ngài sinh ra; chứ không như Octavô phải đợi đến khi chinh phục được cả thiên hạ rồi lên ngôi hoàng đế và bắt người ta phải xưng tụng mình là Augustô cũng có nghĩa là chúa. Ông lạm quyền, vì ông cũng chỉ là phàm nhân. Ðang khi hài nhi thành Bêlem, tuy quấn trong khăn, nằm nơi máng cỏ đã là Chúa từ bẩm sinh và từ bản tính. Tước hiệu hoàng đế chỉ theo sau xa xa vậy, khi người ta hiểu theo nghĩa thông thường Ngài thuộc dòng Ðavít.
 
Trái lại, vì là Chúa và chia sẻ quyền Thiên hoàng của Chúa Cha, Ngài được các thiên thần hợp đoàn đông đảo chúc tụng. “Vinh quang Thiên Chúa trên trời cao thẳm. Và dưới đất bình an cho kẻ Ngài thương”. Ngài đến ban bình an cho mọi người dưới đất để ứng nghiệm sách Isaia chúng ta đã nghe đọc.
 
Như vậy, bài Tin Mừng Luca nói lên niềm tin sâu xa của cả Hội Thánh khi đứng trước hang đá máng cỏ. Bề ngoài mọi sự thật bình dị, khó nghèo và khổ sở nữa dưới sức mạnh của thế gian; nhưng rõ ràng đây là trẻ thánh mà Isaia đã tiên báo sẽ đem bình an đến cho mọi người. Các Tông đồ của Người không bao giờ phải sợ rao giảng Mầu nhiệm Thập giá; vì cũng như Luca hôm nay đã thấy vinh quang cao cả của Thiên Chúa đến ngay sau cảnh tượng đản sinh khó nghèo, thì sức mạnh của Chúa Phục sinh sẽ tỏ hiện trong sứ điệp thập giá. Luca đã dùng chữ “hôm nay” để nói rằng lúc này Chúa Cứu Thế còn đến với chúng ta và việc Giáng sinh của Ngài hiện tại vẫn có sức mạnh cho những ai đón nhận Ngài. Vậy, làm thế nào để hằng ngày vẫn nhận được ơn Ngài giáng sinh? Có lẽ bài thư gởi Titô có thể đem lại cho chúng ta một câu trả lời.
 
3. Chúng Ta Phải Ngóng Ðợi Cuộc Hiển Linh Của Chúa
Thánh Phaolô tác giả bài thơ đã quá biết: Ân sủng cứu độ của Thiên Chúa đã hiển linh cho mọi người rồi trong cuộc đản sinh và trong cuộc đời của Ðức Giêsu Kitô. Nhưng Người cũng biết rõ: Cuộc hiển linh ấy mới chỉ khởi sự. Nó còn phải đi tới chỗ vinh quang lớn lao trong ngày Chúa trở lại. Bây giờ chúng ta mới biết Ðức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa đã sinh ra làm người và đã thí mình vì ta để cứu chuộc ta khỏi mọi tội ác và tẩy rửa lấy cho mình một dân làm sở hữu là Hội Thánh; nhưng chúng ta chưa được thấy Ngài trong vinh quang Chúa Cha. Thế nên chúng ta phải ngóng đợi… Không phải một cách thụ động nhưng tích cực. Chúng ta phải nhìn vào cuộc đời của Ðức Giêsu Kitô để có thái độ đẹp lòng Ngài lúc Ngài lại đến. Thế mà Ngài đã dạy chúng ta từ bỏ lối sống vô đạo thất nghĩa với Thiên Chúa và lối sống chạy theo các đam mê trần tục, để sống điềm đạm, công chính và đạo đức nơi đời này. Do đó, chúng ta hãy biết chế ngự các đam mê để được điềm đạm; sống bác ái để nên công chính và thi hành đạo đức để đẹp lòng Chúa. Có như vậy chúng ta mới khỏi tội lỗi và được ở trong dân thánh sở hữu của Ngài để có ngày nhận được hy vọng hồng phúc Ngài hứa ban là nhìn thấy vinh quang lớn lao của Ngài mà ánh sáng đêm nay mới khởi sự…
Như vậy, chiêm ngưỡng Chúa Giáng sinh hôm nay, chỉ là để nhìn thấy nếp sống và đường lối của Người mà đi theo. Hơn nữa tham dự thánh lễ này là để rước Người vào giáng sinh ở nơi tâm hồn và đời sống chúng ta, nhờ đó chúng ta sẽ biết sống như Người. Và như thế để sau cuộc đời trần gian, bề ngoài có vẻ khó nghèo và khổ đau nhưng có ơn Người làm sức mạnh, chúng ta sẽ đi tới ngày hiển linh, vinh quang lớn lao của Người và của chúng ta. Bởi vì hôm nay Người đã giáng sinh là để kết hợp với những ai đón nhận Người và đưa họ tới vinh quang cao cả của Người đã có từ muôn thuở với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Lễ Giáng sinh hôm nay vì thế chỉ là khởi đầu… Chúng ta hy vọng sẽ được cùng nhau đạt tới lễ rực rỡ huy hoàng vô tận sau này.
 
Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm 
 
 
PHẨM GIÁ CON NGƯỜI
Lc 2, 1-14
Gp. Vĩnh Long
Mọi người có mặt trong Thánh lễ hôm nay, chắc chắn không ai xa lạ với Lễ Giáng Sinh. Ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần tham dự Thánh Lễ này. Đặc biệt trong đêm nay, chúng ta hãy tìm hiểu ý nhgĩa sâu xa của ngày lễ trọng đại này. Và chúng ta hãy xem, biến cố lịch sử này có ảnh hưởng gì đến cuộc sống của chúng ta.
 
Tôi muốn khởi sự việc suy niệm này qua những bài kinh thành mà Giáo Hội chọn đọc trong Thánh Lễ đêm nay.
Trong bài đọc I, tiên tri Isaia loan báo về ngày mà Đấng cứu độ sẽ sinh ra để giải thoát nhân loại khỏi những áp bức, bất công và những đau khổ nhờ Đức Kitô.
 
Cũng nhờ Đức Giêsu Kitô, chúng ta được hưởng ơn cứu độ mà chúng ta hằng mong đợi. Đây là ý nghĩa chính mà Thánh Phaolô đã nói trong bài đọc II.
 
Còn Tin Mừng theo Thánh Luca, diễn tả lại hoàn cảnh sinh ra của Đức Giêsu và việc các Thiên thần loan tin vui này cho các mục tử.
 
Qua các bài kinh thánh, chúng ta có thể rút ra những bài học ý nghĩa cho đêm cực thánh này: Con người con người có một phẩm giá cao quý và cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào con người cũng không được làm tha hoá phẩm tính cao quý ấy.
 
Thánh Irênê thế kỷ thứ III đã nói: Thiên Chúa đã làm con người để cho con người làm Thiên Chúa. Chúa GIêsu làm người để cho chúng thấy được phẩm giá cao cả của con người. Chọn lựa sinh ra tronh hoàn cảnh nghèo hèn, thấp kém… Qua đó Ngài muốn nói với nhân loại rằng: Cái phẩm giá và giá trị đích thực của con người không nằm ở sự giàu sang, quyền thế. Sở dĩ con người có một phẩm giá cao trọng là bởi gì con người đượ dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, dù sống trong cảnhöõng nghèo hèn, “mạc rệp” đến đâu trong bậc thang xã hội loài người thì mỗi người sinh ra trong cõi đời này đều có một phẩm giá độc đáo và bất khả xâm phạm,.
Thật vậy, Chúa Giêsu đã làm người để chúng ta thấy con người có một giá trị như thế nào. Nhiều khi trong cuộc sống có những lúc chán nản, thất vọng…vì gặp phải hoàn cảnh éo le, bất hạnh. Nhưng khi đó, chúng ta hãy suy gẫm về mầu nhiệm Giáng Sinh. Chính Thiên Chúa cũng làm người, chẳng những thế mà Ngài lại chọn một hoàn cảnh hết sức thấp kém, thấp kém đến nỗi mà người ta không nhận ra Ngài nên nhẫn tâm xua đuổi. Nhưng Chúa vượt qua tất cả, nhưng Ngài vượt qua không phải bằng sức mạnh của riêng mình mà nhờ kết hợp với Chúa Cha trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Vì thế, chúng ta cần phải sống đúng với phẩm giá của mìnhvà bên cạnh đó cũng phải biết tôn trọng phẩm giá của người khác.
 
Chúa Giêsu không những đến để bày tỏ phẩm giá cao cả ấy cho con người, mà Ngài còn vạch ra một hướng đi mới cho lịch sử nhân loại. Ngài cho thấy: chiến trang và hận thù chưa phải là tiếng nói cuối cùng của nhân loại. Và Ngài chỉ cho con người thấy một sức mạnh vạn năng đó là sức mạnh của tình yêu, chính tình yêu làm nên ý nghĩa cho cuộc sống, và cũng chính vì tình yêu mà Ngài Giáng Sinh. Vì thế, cuộc sống của chúng ta thật sự có ý nghĩa khi biết dấn thân chống lại tội ác và sự dữ để đấu tranh cho tình yêu và công lý.
 
Dù yếu đuối, bất toàn, nhưng mỗi người trong địa vị của mình đều có thể góp phần làm cho thế giới này trở thành một nơi đầy ý nghĩa, một nơi đáng để cho chúng ta sống vì nơi đó đầy ấp tiêng cười và tình thương.
 
Trong đêm thánh này, chúng ta hãy cố gắng manng lại cho người khác một tình thương và một niềm hy vọnng để họ có thể cảm nhận được hạnh phúc của cuộc sống này, của ơn gọi lạm người. Có như thế, chúng ta mới cảm nhận được niềm vui và sự bình an đích thực mà các Thiên Thần đã loan báo trong đêm Giáng Sinh.
 
Lễ Giáng Sinh không đến rồi lại qua đi theo thời gian nhưng vẫn ở mãi trong tâm hồn chúng ta nếu chúng ta nhìn nhận, tôn trong phẩm giá của mỗi tha nhân và cố gắng loại bỏ tính hẹp hòi ích kỷ nơi bản thân… Ước gì cuộc sống của chúng ta được thêu dệt bằng tình thương và sự tha thứ để lễ Giáng Sinh luôn là một đại lễ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho nhân loại.
 
 
QUÀ TẶNG CHO NHÂN LOẠI
Lc 2, 1 – 14
Gp. Vĩnh Long
 “Một trẻ thơ đã chào đời cho chúng ta; một người con đã được ban tặng cho chúng ta…” (Is 9, 5)
 
Để tỏ sự thân thiện với nhau, người ta dùng cử chỉ tay bắt mặt mừng. Để tỏ lòng quí trọng nhau hơn nữa, người ta dùng quà cáp để tặng nhau. Có nhiều loại quà cáp, nhưng tựu trung có 4 loại chính: quà quí và quà thường – quà vô giá hay không vô giá… Trong tk 20, có một vị thánh là Cha Maximilien Kolbe đã chết thay cho bạn tù là anh Phanxicô Gajowniczed, trong trại tập trung của Đức quốc xã, năm 1941. Cái chết của cha đã trở nên Quà Tặng vô giá, không riêng cho anh tù này mà còn cho Hội Thánh Chúa Kitô nữa….
 
Việc Con Thiên Chúa sinh ra làm người, để rồi cuối cùng Ngài chết trên cây thánh giá vì nhân loại chúng ta, việc sinh ra này đã trở thành Quà Tặng vô giá cho nhân loại; vô giá không phải chỉ vì Tình Yêu, mà vô giá còn vì món quà này, có khả năng mang lại sự sống cho nhân loại nữa. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
 
a. Con Thiên Chúa được sinh ra cho nhân loại, trở thành Quà Tặng vô giá, vô giá vì nó đem lại sự sống cho nhân loại. Điều này đã được các tiên tri nói trước trong Cựu Ước, trước Chúa sinh ra hơn 500 năm. Hai đoạn Kinh thánh chính yếu nói về biến cố sinh ra này:
Mikêa 5, 1-2: “Hởi Bêlem Êphrata, ngươi nhỏ nhất trong các bộ tộc Giuđa, nhưng từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một Đấng thống trị Israel; nguồn gốc của Người có từ trước, từ muôn đời.” Tiên tri Mikêa đã viết câu này từ 720 năm trước công nguyên.
Isaia 7, 14 : “chính Thiên Chúa là Chúa Tối cao sẽ ban cho ngươi một dấu lạ: Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Emmanuel.” Tiên tri Isaia rao giảng phần này vào tk 8 , trước CN, một thời gian khá lâu trước Chúa Cứu thế.
Ngoài ta, còn 4 quyễn Phúc Âm , ghi lại cuộc đời của Chúa Cứu thế, từ lúc sinh ra cho đến chết trên Thánh giá; dù tác giả những quyển sách này là tông đồ, là môn đệ của Chúa, nhưng các ngài muốn nói lên cách trung thực điều các ngài đang tin, không hề có giả dối. Chính các ngài còn liều cả cuộc đời và mạng sống mình để cho mọi người cùng tin. Hội thánh qua 20 tk cũng sẳn sàng làm chứng cho ta về Quà Tặng vô giá, có một không hai này.
 
b. Vậy mà sau 20 tk, có bao nhiêu người tin vào Đấng Cứu thế, bao nhiêu người sẵn sàng đón nhận Quà Tặng này? Chính ngày hôm nay, trên cả thế giới người ta đón nhận lễ này như là lễ hội, như lễ nghỉ, như dịp vui chơi giải trí mà thôi; người ta không bận tâm đón nhận Quà Tặng Tình Yêu, quà tặng ban sự sống cho chính mình. Thật đáng tiếc !!
Thực ra, Con Thiên Chúa đến trần gian không phải để đi du lịch, tham quan trái đất, xem con người sống như thế nào. Người đến trần gian chính là để trở nên Quà Tặng Tình Yêu, Quà Tặng sự sống. Tình Yêu và Sự Sống này là rất thật, chỉ có nơi Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mới có khả năng ban sự sống thật này mà thôi. Chính vì yêu thương con người mà Con Thiên Chúa sinh ra làm người; cũng chính vì yêu thương mà Ngài sẵn sàng chết, để mang lại sự sống cho con người. Quà Tặng như thế không phải là vô giá sao? Vậy mà con người nhiều lúc chất vấn Thiên Chúa: chúng tôi đâu cần quà tặng này? Lợi ích gì cho chúng tôi? Chúng ta thử nghỉ xem: Thiên Chúa đâu có mắc nợ con người? Khi trao tặng món quà quí giá này, điều đó có lợi gì cho Thiên Chúa? Nhà chính trị, nhà buôn, họ sẽ không làm bất cứ điều gì khi không có lợi cho họ. Còn về việc này, anh chị em hãy trả lời xem: ngày lễ hôm nay,Thiên Chúa ban cho ta Quà Tặng vô giá là chính Con của Ngài, điều đó lợi ích gì cho Thiên Chúa, nếu không muốn nói vì Tình Yêu? Dù vậy, vì quá yêu thương con người, Thiên Chúa vẫn để cho con người có tự do lựa chọn hay từ chối Quà tặng này. Đây chính là mầu nhiệm, cũng là điều mà cả nhân loại, không riêng người công giáo, phải suy niệm, khi ta còn sống trên mặt đất này…
c. Gợi ý và suy niệm:

  • Mừng kính ngày lễ hôm nay, chính là mừng kính Con Thiên Chúa sinh ra làm người, trở nên quà tặng cho nhân loại. Biết như vậy, ta có sẵn sàng đón nhận hay là từ chối?
  • Quà tặng vô giá , ta biết đó, nhưng ta có sẵn sàng gìn giữ bảo tồn, nhất là biết sống xứng với quà tặng ta lãnh nhận không?

 
 
MỪNG LỄ GIÁNG SINH
Ga 1, 1 – 18
Gp. Vĩnh Long
 
Các bạn thân mến!
Người ta kể rằng có một vì vua nọ muốn biết tình hình thần dân trong nước của mình hiện đang sống ra sau để có thể chăm lo cho dân được sống sung túc ấm no hạnh phúc. Vua đã cải trang thành một người bình thường như dân chúng để tiện nắm tin tức, nhưng vì hoá trang quá giống, giống đến độ người ta đã không thể nhận biết Ngài là ai dù sau đó Ngài đã xưng mình là vua cũng không ai tin. Điều đáng trách hơn là cả những người đã từng được vua cắt đặt làm quan coi sóc dân cũng chẳng nhận ra Ngài. Và họ đã chối từ Ngài không nhận Ngài là vua của họ, vì họ cho rằng làm gì có chuyện có một ông vua nào yêu thương dân như thế. Họ chối từ Ngài mà không hề có chút gì ăn năn hối tiếc, họ khi phụ rẫy tấm lòng yêu thương của vua dành cho họ. Đây chính là cuộc đời của Hài Nhi Giêsu mà Giáo Hội lễ hôm nay.
Trong bài đọc một tiên tri Isaia loan báo Thiên Chúa sẽ ban cho dân Người một Đấng Cứu Độ, Đấng ấy sẽ an ủi dân và mang lại ơn cứu độ cho mọi người.
 
Bài đọc hai Thánh Phaolô Tông Đồ xác định địa vị cao trong của Đức Kitô , Đấng là Con Một Thiên Chúa , Người đã xuống thế làm người như chúng ta để xoá bỏ tội lỗi và cứu chuộc nhân loại. chính nhờ Người và trong Người mà vũ trụ vạn vật được tác thành và giờ đây lại được cứu chuộc.
 
Qua bài Phúc Âm, Gioan trình bày Đức Kitô chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa và cũng chính là Thiên Chúa . Đấng là Sự Sáng và là Sự Sống nay đã mặc lấy xác phàm đến cư ngụ trong thế giới này, cùng sống với nhân loại. Người là Đấng đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa và bất cứ những ai tin vào Người thì có được sự sống đời đời.
 
Hằng năm, vào ngày 25/12 là ngày Giáo Hội hoàn vũ long trọng mừng mầu nhiệm trọng đại Đức Kitô Con Thiên Chúa xuống thế làm người, mang lấy thân phận loài người như chúng ta, sống kiếp sống con người như chúng ta để cứu chuộc chúng ta.
 
Trong những ngày trước đó, ta thấy khắp mọi nơi đều rộn lên không khí chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, cây thông được trang trí thật đẹp, các thiệp chúc mừng Giáng Sinh được gởi đi, quà Giáng Sinh được chưng dọn bày bán khắp mọi nơi trông thật sôi động ; không chỉ có ở Việt Nam thôi mà mọi nước trên thế giới đều như thế. Ngày Giáng Sinh đã trở thành một ngày lễ chung cho tất cả mọi người trên thế giới, từ người có tôn giáo cũng như không tôn giáo. đặc biệt là nơi các họ đạo, Nhà Thờ được quét sơn lại, trang trí nào cờ nào đèn, đèn và hoa được trang trí sáng rực thật là náo nhiệt.
 
Rồi đến ngày chính lễ, người người tất bật chở nhau tên mọi phương tiện, ăn diện những bộ đồ thật là đẹp đi dự lễ. Trước những khung cảnh ấy không ai lại không thấy lòng mình rộn lên một niềm vui, như được cuốn hút vào không khí ấy. Trong những viễn cảnh đó, chúng ta thử nhìn lại đâu là giá trị thật sự và ý nghĩa đích thực của ngày lễ này.
 
Giáo Hội cử hành mầu nhiệm này nhằm mục đích gì? phải chăng Giáo Hội muốn tổ chức một buổi lễ mang tính lễ hội vui chơi? Chắc chắn một điều là không phải với những ý nghĩa đó. Giáo Hội long trọng mừng lễ Giáng Sinh với mục đích là nhắc nhớ cho người Kitô hữu nhớ là họ đã và đang đón nhận một Mầu Nhiệm trọng đại, một Hồng Ân vượt sức tưởng tượng của con người là Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại đã ban Con Một Người mang Áng Sáng đến thế gian giải thoát con người khỏi bóng đêm của tội lỗi, mang Sự Sống thật đến cho nhân loại. Sở dĩ Giáo Hội mừng lễ cách long trọng như thế là để cảm ta cho một Hồng Ân bao la vượt quá trí hiểu của con người. Hồng Ân này đã làm cho trời đất giao hoà, Thiên Chúa và nhân loại giờ đây không còn khoảng cách nữa. Biến cố Con Thiên Chúa xuống thế làm người mở ra một trang sử mới cho nhân loại: Thiên Chúa xuống thế làm người để đưa con người lên làm Chúa. Giáo Hội ý thức rõ Mầu Nhiệm Giáng Sinh này là một Mầu Nhiệm tình yêu, một tình yêu mang tính cách một chiều phát xuất từ Thiên Chúa, một tình yêu cho không, biếu không.Với Mầu Nhiệm này loài người chỉ còn biết hết lòng tri ân cảm tạ vì hồng ân quá bao la quá cao vời này.
Tiếc rằng nhân loại chỉ mãi lo những chuyện đâu đâu, chỉ lo tìm kiếm những giá trị trần thế chống qua và tạm bợ mà lại lơ là với mầu nhiệm cực trọng này “Israen không hay không biết, dân Ta không hiểu không tường” (Is 1,2). Thánh Gioan cho thấy một thực trạng đáng buồn là: Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1, 10-11) Thực trạng này Gioan không chỉ muốn ám chỉ đến những người Do Thái ngày xưa mà thôi, nhưng còn là thực tế cho mọi thời kể cả ngày hôm nay nữa.
 
Thực vậy, ngày nay ngay cả trong chính giới người được gọi là người Kitô hữu cũng đang từ chối Người, Không nhận biết Người. Cách thức con người ngày hôm nay khéo léo hơn người Do Thái xưa nhiều, họ có đủ mọi lý do để chối từ Đức Kitô : nào là công chuyện, nào là phải lo cho đời sống kinh tế, nào là nếu người khác biết tôi là người công giáo sẽ mất sở làm không được thăng quan tiến chức…..Đây chỉ là phần băng nổi, còn “Tảng băng chìm” thì mới là cái đáng nói đáng quan tâm. Tảng băng chìm này là: người ta vẫn đến nhà thờ vẫn giữ những ngày lễ Giáo Hội quy định nhưng chỉ giữ cho có , giữ cách vô hồn; xem việc đi tham dự Thánh Lễ như là một việc làm cho đủ nghĩa, cho đủ những bổn phận rồi thôi. Ngay chính trong ngày trọng đại của Mầu Nhiệm Giáng Sinh này, họ chỉ trang trí bên ngoài cốt sao cho đẹp cho rực rỡ, ăn vận cho đẹp thế nhưng thử hỏi lòng họ có được chuẩn bị, được trang trí thật đẹp thật sẳn sàng, thật xứng đáng để đón mừng Chúa Giáng Sinh như những gì họ bày trí bên ngoài? chắc chỉ có thể đếm được trên đầu ngón tay. Họ chuẩn bị mọi sự nhưng chỉ là những cái phụ tuỳ, trong khi cái chính yếu là dọn tâm hồn cho xứng đáng để đón Chúa thì lại không được chuẩn bị. Sự lệch lạc này đã biến mầu nhiệm Giáng Sinh cực trọng trở nên một lễ hội vui chơi như bao lễ hội khác không hơn không kém. Cả những người trong giới hướng dẫn đời sống đức tin nếu không ý thức đủ cũng có thể dễ dàng bị cuốn hút vào dòng thác này.
 
“ Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” Khi cử hành Mầu Nhiệm này, chắc chắn Giáo Hội không có ý muốn tưởng niệm hay hoài nhớ về một việc đã qua rồi, nhưng là một lời nhắc nhở vì một Hồng Ân đã và đang hiển hiện nơi mỗi con người, con người đã và đang lãnh nhận hàng ngày.con Thiên Chúa đã đến và ở lại với loài người luôn mãi. Ngài đã vì một tình yêu dành cho con người mà bất chấp tất cả mọi sự: Ngôi vị Thiên Chúa , vinh quang, danh dự, uy quyền của Người, Người rũ bỏ tất cả để hiện diện nơi trần thế. Mục đích không gì khác hơn là để nói với con người rằng Thiên Chúa yêu thương con người và muốn cứu chuộc họ. Hồng Ân đã sẳn, phần còn lại là nơi con người có sẳn sàng đón nhận hay không mà thôi.
 
Càng chiêm ngắm Mầu Nhiệm cao trọng này ta lại càng thấy Thiên Chúa yêu thương ta là dường nào. Thiên Chúa có thể dùng nhiều cách để yêu để cứu độ, nhưng Thiên Chúa đã không làm. Người lại chọn cách thức yêu cách thức cứu độ bằng cách mặc lấy chính thân xác một con người để đến như là một minh chứng cụ thể cho tình yêu. Như đôi trai gái yêu nhau, muốn sống gần nhau, kết hợp nên một với nhau, muốn hiện diện ngày đêm bên người mình yêu, sống chết cho người mình yêu; thì ở đây một cách nào đó có thể lấy ví dụ này để hiểu được chút nào đó cách thức Thiên Chúa đã yêu thương loài người. dù rằng với ngôn ngữ loài người không thể nào có thể hiểu được trọn vẹn cách thức Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại.
 
Hoà cùng niềm vui với toàn thể Giáo Hội hoàn vũ mừng Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa xuống thế làm người, ước gì mỗi khi chúng ta chuẩn bị lễ, tham dự lễ cũng hãy biết chuẩn bị tâm hồn mình cho xứng đáng để đón Chúa, nhận ra Chúa qua dáng vấp hài nhi bé thơ nằm trong máng cỏ chiên bò, đặc biệt nhận ra Chúa hiện diện nơi anh em đồng loại mình. Để rồi không phải hối tiếc lầm lẫn như những người trong câu chuyện trên đã không nhận biết vì vua của mình.
 
 
ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI
Ga 1,1-18
Gp. Vĩnh Long
Chúng ta biết rằng, ngày 25/12 không phải là ngày Chúa Giêsu sinh ra thật. Cũng không ai biết chính xác Chúa sinh ra vào ngày nào. Nhưng Giáo hội chọn ngày 25/12 là ngày Sinh nhật của Chúa Giêsu vì ngày này nhiều nước ở thế giới Phương Tây, đặc biệt là Hy lạp đã tổ chức kính Thần Mặt Trời rất long trọng. Giáo hội muốn cho mọi người thấy rằng chính Đức Giêsu mới chính là Mặt trời Công Chính, là Ánh sáng thật – Ánh sáng ban Sự sống cho con người, chứ không phải anh Thần Mặt Trời Astra nào đó.
 
Có thể nói, trước khi Đức Giêsu Giáng sinh, nhân loại đang ngụp lặn trong bóng tối vì không có ánh sáng của Chân lý soi đường dẫn lối, nên con người không biết đường biết hướng về đâu. Nói như thế, có lẽ có nhiều người thắc mắc rằng: Như vậy thì Lời Chúa trong Cựu Ước thì sao? Chẳng lẽ lời của các Ngôn sứ lại ra vô hiệu hết hay sao? Không phải thế. Lời các Ngôn sứ vẫn có giá trị. Nhưng các Ngôn sứ, ngay cả Giao Thẩy Giả cũng chỉ đến để rao giảng và làm chứng cho ánh sáng thật và Chân lý là Đức Giêsu Kitô mà thôi. Còn chính Đức Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sáng. Người có quyền tha tội và ban sự sống cho con người. “Ai đón nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Ga 1,12), nghĩa là ban sự sống muôn đời cho họ vì Thiên Chúa là Sự sống vĩnh cửu, sự sống đích thực.
 
Nhưng đáng buồn thay, Ngôi Lời là Ánh Sáng thật đã đến thế gian nhưng thế gian đã chối từ và không tiếp nhận ánh sáng đó. Lý do nào mà con người không muốn đón nhận Ánh Sáng thật là Đức Giêsu? Có thể có những lý do sau đây:

  • Con người thích ở trong Bóng tối. Họ sợ đến cùng ánh sáng vì các việc làm của họ thì xấu xa. Họ sợ phải phô bày công việc của mình vì họ đang làm những công việc đen tối. Họ muốn huỷ diệt ánh sáng vì ánh sáng đã làm họ mất “mảnh đất sống”.
  • Họ sợ phải tha đổi, sợ phải bỏ lớp vỏ mà họ đã xây đắp bao năm rồi. Não trạng cố hủ, lão hoá đã thâm căn cố đế trong họ rồi. Những người này sẽ không ngần ngại nói rằng: “rượu cũ ngon hơn” dù họ chưa nếm rượu mới bao giờ và biết rượu mới có thể ngon quí giá hơn rất nhiều.
  • Bán tín bán nghi. Đây là thái độ của những con người vụ lợi. Họ muốn đem lên bàn cân tất cả những giá trị trong cuộc đời này, ngay cả đó là vấn đề tâm linh. Họ phải thấy quyền lợi ngay trước mắt thì họ mới đi theo. Vì thế, có rất nhiều người bước`Chúa theo Chúa Giêsu nhưng khi gặp hay nghe những gì không đúng với ý muốn của họ là họ tìm cách thoái lui ngay. Hạng người này có thể nói là nhiều nhất trong thời của Chúa Giêsu, ngay cả các môn đệ cũng có não trạng đó. Nhưng may mắn là họ được Chúa thanh lọc, nên họ đã thức tỉnh và nhận ra sai lầm của mình. Đơn cử một vài trường hợp mà Tin mừng nhắc đến. Có lần, khi các môn đệ nghe Chúa Giêsu công bố Người là Bánh hằng sống, thì có nhiều người trong số họ đã nói: “ Lời này chướng tai quá ai nghe cho nổi”( Ga 6,60). Từ đó, có nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa. Hay ta cũng thấy cảnh đám đông chen lấn đến với Chúa Giêsu để tung hô Người khi Người vào Thành Thánh Giêrusalem: “ Hoan hô, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa, chúc tụng Vua Israel ” (Ga 12,13). Họ tung hô và reo hò như thế vì họ tưởng rằng Chúa Giêsu sắp lên làm vua cai trị họ. Nhưng khi thấy Chúa Giêsu bị quân lính vây bắt và bị hành hạ thì họ liền thay đổi thái độ đối với Người. Lời tung hô chúc tụng giờ đây trở thành lời nhạo báng chê cười và kết án. Họ là những người đồng thanh hô lớn: “Đem đi! Đem nó đi. Đóng đinh nó vào thập giá” (Ga 19,15).

 
Và chắc sẽ còn nhiều lý do khác nữa. Nhưng với 3 lý do nêu trên thiết nghĩ cũng đủ cho chúng ta suy nghĩ và xét mình lại. Chúa Giêsu là Ánh Sáng thật phát xuất từ Ánh sáng. Người đã đến chiếu ánh sáng vào những chỗ tăm tối trong tâm hồn ta, nhưng ta có chịu mở cửa tâm hồn mình ra để đón nhận ánh sáng và để cho ánh sáng của Chúa biến đổi lòng ta hay chưa. Hay ta vẫn thích ở trong Bóng tối, sợ phải thay đổi hay đón nhận kiểu nửa vời . . . Ai đón nhận kiểu nửa vời thì cũng đồng nghĩa với không đón nhận gì cả. Ánh sáng rồi sẽ chiến thắng bóng tối. Cuộc chiến giữa Bóng tối và Ánh sáng rồi sẽ đưa về chiến thắng cho Ánh sáng, dẫu rằng cuộc chiến ấy sẽ có nhiều gay go và gian khổ. Bóng tối của thế gian chính là ma quỷ, là sự dữ, tội lỗi và sự chết. Còn Ánh sáng chính là Đức Giêsu Kitô. Nơi diễn ra cuộc chiến ấy là cuộc sống dương thế này và ngay trong con người của ta, ở cõi lòng ta. Chúng ta nên biết rằng chúng ta không phải là đối thủ của ma quỷ. Chúng ta không thể chiến đấu và chiến thắng chúng bằng tự sức của ta được. Vì thế, chúng ta cần biết cậy dựa vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu Kitô là Ánh sáng thật thì chúng ta mới có thể đẩy lùi và tiêu diệt Bóng tối ấy được.
 
Xin Chúa giúp chúng ta biết mở lòng mình ra để đón hận chính Chúa là Ánh sáng ban sự sống cho chúng ta. Xin Chúa biến đổi chúng ta thành con cái của Ánh sáng để chúng ta có thể chiếu soi ánh sáng ở những nơi còn trong bóng đêm tội lỗi, để lòng của mọi người đều vang lên lời ca tán tụng rằng: “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời.Bình an dưới thế cho người thiện tâm.”
 
LỄ GIÁNG SINH (LỄ ĐÊM)
Lc. 2, 1 – 14.
Gp. Vĩnh Long
Anh chị em thân mến.
Đã qua rồi bao nhiêu ngày rộn rã, tất bật, chuẩn bị, lo lắng. Người trẻ thì chuẩn bị chờ đợi để có được những ngày vui chơi nghỉ ngơi. Người thì lo lắng sợ sệt, không biết phải chuẩn bị những gì cho cuộc lễ. Nhưng cho dù chuẩn bị có chu đáo hay không, thì việc gì đến sẽ đến và phải đến. Những ai có chuẩn bị thì mừng lễ được vui vẽ trọn vẹn hơn. Còn những ai không chuẩn bị hay lo sợ, thì những ngày nầy sẽ qua đi mà không để lại cho họ một chút ý nghĩa nào hết.
Chúng ta đang ngồi trong nhà thờ để tham dự thánh lễ. Chúng ta cũng trải qua những ngày vất vã. Ai cũng muốn cho ngày lễ được tốt đẹp hết sức có thể, nên mọi người đều cố gắng. Khi thời gian đã đến, chúng ta chỉ còn biết ngồi nhìn, nhìn lại thành quả mà mình đã chuẩn bị, nhìn lại những gì mà mình đã làm trong mấy ngày qua. Có lẽ giờ nẫy có người bằng lòng với những gì mình đã làm, nhưng cũng có người còn lo âu hối tiếc, vì thấy mình làm chưa được tốt đẹp lắm. Nếu giờ nầy, còn có thể làm lại được, thì phải sửa và phải thêm vào cho chu đáo, như thế mới vừa ý. Nhưng mọi việc đã kết thúc, không ai có thể làm thêm điều gì nữa. Nếu sau đó, có ai làm thêm điều gì thì cũng là vô ích và phí công. Mọi việc đều có thời gian của nó.
 
Việc chuẩn bị bên ngoài là như thế. Ngôi đền thờ tâm hồn của mỗi người, ngôi nhà để đón rước Chúa thật sự, ngôi nhà nầy có được chuẩn bị gì không? Mỗi người chúng ta nhìn lại chính mình, trong giờ phút linh thiêng nầy, trong giờ phút quyết định, đã đến lúc mỗi người chào đón Chúa. Nhưng đón rước Chúa với một tâm hồn trống rỗng, lạnh nhạt, không lời nói, không tiếng cười, hay trái lại còn có nhũng câu xua đuổi, những lời nói không mấy tốt đẹp, vì không muốn tiếp đón. Hay là chúng ta đón rước Chúa với một tâm hồn hỗn độn, đang rối bù với những công việc, những lo lắng không cần thiết, mà giờ nầy vẫn còn chất đầy trong tâm tư. Như vậy, tâm hồn chúng ta có còn chỗ nào trống để Chúa có thể bước vào được hay không? Hay cho đến giờ này mà tâm hồn vẫn còn đóng kín cửa lại để mãi lo toan tính những công việc riêng tư, những công việc tư lợi cá nhân, những công việc mưu hại, hiềm khích người khác, những công việc của sự hưởng thụ, sa hoa trụy lạc, những công việc thỏa mản con người riêng tư ích kỷ. Ngôi nhà tâm hồn của chúng ta bề bộn như thế đó, thì còn chỗ nào trống, để Chúa có thể đến và ngự được trong tâm hồn của mỗi người chúng ta.
 
Chúng ta đang ngồi trong ngôi nhà thờ đã được chuẩn bị rất công phu. Chúng ta cũng đã chuẩn bị cho mình thật tươm tất để dự lễ. Tất cả những thứ đó đều trở nên vô ích, nếu tâm hồn chúng ta không một chút chuẩn bị để Chúa có thể ngự vào được. Nếu chúng ta biết dọn tâm hồn mình, nếu chúng ta biết sữa đỗi cuộc sống, nếu chúng ta nhìn thấy được những điều không hay không tốt, mà biết bỏ đi và làm những gì có ích lợi. Nếu chúng ta biết nhìn thấy được trách nhiệm của bản thân mà Thiên Chúa trao phó để chu toàn cho tốt đẹp. Đó là cách chúng ta biết chuẩn bị để đón rước Chúa vào trong tâm hồn của mình thật sự. Còn nếu cho đến giờ nầy, mà tâm hồn vẫn cò vô tư trống rỗng, không nhìn thấy, không quyết tâm, thì cũng có lẽ, giống như bao mùa Giáng Sinh đã trôi qua trong cuộc đời của chúng ta mà không để lại một chút ấn tượng nào, không để lại một chút thay đỗi tốt đẹp nào cho cuộc sống, không mang lại kết quả gì cho chúng ta. Nếu như thế thì vô phúc cho chúng ta quá.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa sữa đỗi con người, cuộc sống của chúng ta để xứng đáng đón rước Chúa Hài Đồng và hưởng một mùa Giáng Sinh tràn đầy Hồng Ân Chúa.
 
 
 
 
 
CÁC MỤC TỬ ĐẾN THỜ LẠY CHÚA
Rạng Đông (GM UNI)
Lc 2,15-20
Gp. Vĩnh Long
1. Có hai anh thanh niên, một là người địa phương, da đen và một là người bạn ngoại quốc, da trắng từ phương xa đến thăm. Họ đang cùng nhau đi dạo trên đường, bổng anh bạn người địa phương dừng lại, đến bên vệ đường vạch vạch cỏ và bắt được một con dế to tướng. Anh da trắng lấy làm lạ hỏi : “tại sao anh biết nó ở đó mà anh đến bắt?”. Anh da đen trả lời : “tiếng dế gáy to như thế mà anh không nghe à ?!”. Đi tiếp một lúc, có một người vừa phóng xe honda vượt qua hai anh, từ người ngồi trên xe một đồng tiền bằng kẻm rơi xuống. Anh bạn da đen tỉnh bơ, còn anh da trắng nghe rõ tiếng rơi của đồng tiền và chạy theo nhặt, anh da đen khen anh da trắng: “sao anh tài thế?”. Anh da trắng đáp :”tiếng đồng tiền rơi trên mặt đường to như thế mà anh không nghe à ?!”.
 
Anh da đen ở vùng hoang vắng, quen nghe tiếng dế, tiếng dã thú nên dễ nhận ra tiếng dế kêu. Anh da trắng thường tiếp xúc với tiền, quen tiếng rơi của tiền nên dễ dàng nhận ra khi nó rơi. Khi chúng ta quen lắng nghe, tìm kiếm cái gì, thì chúng ta mới có thể dễ nhận ra điều đó.
 
2. Điều này làm cho chúng ta suy nghĩ, đêm Chúa sinh ra đời, lời mời gọi, tiếng hát của Thiên Thần hẳn là văng vẳng cả cánh đồng Bêlem:” Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương ” (Lc 2,14). Thế nhưng không phải ai cũng nghe được tiếng mời gọi đó để đi đến hang Bêlem thờ lạy Chúa. Trong bài Tin Mừng theo thánh Luca chúng ta vừa nghe, chỉ có các mục đồng là những con người đơn sơ, không vướng bận những của cải, tiền bạc, không bận bịu với những cuộc vui nơi phố xá, khách sạn… những con người ấy mới mau nhận ra tiếng mời gọi của thiên thần, vì thế họ mới “hối hả” đến Bêlem để thờ lạy Chúa. Đây là một thái độ nhanh chóng thi hành thánh ý Chúa.
 
Tin Mừng theo thánh Matthêu cũng cho ta thấy, khi Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, từ phương đông xa xăm, ba nhà thông thái, chúng ta thường gọi là ba vua, đã dõi theo và được ánh sao lạ dẫn đường, đã tìm đến để thờ lạy Chúa Hài đồng (Mt 2,1-12). Các ông tuy là những nhà trí thức, hiểu cao học rộng nhưng với tinh thần đơn sơ khiêm tốn nên mới có thể nhận ra, nhạy cảm với lời mời gọi của Chúa để tìm đến thờ lạy Người dù họ ở rất xa Bêlem. Ngược lại tại Giêrusalem nơi cách Bêlem khoảng 10 cây số, cả triều thần của vua Hêrôđê, có cả những nhà thông thái, rất thạo về lời tiên tri báo trước nơi Đấng Cứu Thế sinh ra. Thế mà họ không nhận ra, đúng hơn là không chịu nhận ra Đấng Cứu Thế giáng sinh ! Lại còn mưu mô giết Hài Nhi nhỏ bé bởi gì danh vọng, chức quyền, thú vui đã bóp nghẹt lòng họ lại!
 
Như thế, dù là những người đơn sơ, hèn kém như các mục đồng hay trí thức, quyền hành như ba nhà thông thái trên, điều đó không quan trọng cho bằng chúng ta cần có một tấm lòng đơn sơ, khiêm tốn, không quá bận tâm những lo toan sự đời, mới có thể nhạy bén nhận ra quyền năng, tình thương của Chúa.
 
3. Ngày hôm nay, tuy chúng ta không được như các mục đồng năm xưa trực tiếp nghe tiếng mời gọi của Thiên Thần, nhưng xung quanh chúng ta có biết bao nhiêu dấu chỉ, để chúng ta có thể nhìn nhận ra sự hiện diện, quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Thế nhưng không phải ai cũng có thể nhận ra được điều này, thật vậy, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh trên 2000 năm nay, Tin Mừng đã được rao giảng khắp nơi, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều người chưa biết Chúa, chưa lắng nghe tiếng của Chân Lý qua lời rao giảng, qua các dấu chỉ.
 
Câu chuyện sau đây phần nào cho chúng ta hiểu hơn được điều đó, vào ngày 12.04.1961 Juri Gagarin, phi hành gia người Nga được bay vào vũ trụ, ông ta nói tôi đã bay qua các tầng trời, tôi không thấy Thiên Chúa đâu cả, thật là một câu nói đầy ngạo mạn. Ít lâu sau, vào ngày 20 tháng 7 năm 1969, phi hành gia người Mỹ Neil Amstrong và 2 người bạn nữa đã đi trên tàu Apolo lên mặt trăng, vừa đặt chân lên mặt trăng, trước cảnh tượng hùng vĩ của mặt trăng, của vũ trụ, ông đã làm dấu thánh giá, và cất lời ngợi khen tôn vinh Thiên Chúa, Đấng tạo dựng vụ trụ vạn vật. Hai phi hành gia, hai nhà trí thức nhưng hai thái độ thật khác nhau trước dấu chỉ hiện diện của Thiên Chúa qua vũ trụ.
 
4. Lại một lần nữa, Giáng Sinh trở về. Giáng sinh không chỉ là niềm vui của riêng người Kitô hữu, mà của mọi người. Chúng ta thấy anh chị em lương dân cũng đi viếng máng cỏ, chúng ta cũng đi viếng. Nhưng đứng trước máng cỏ sẽ có những tâm tình rất khác nhau, ngay chính cả người Kitô hữu chúng ta cũng thế, có thể chúng ta chỉ đến để xem coi lễ năm nay có tổ chức lớn không, hát hay không ? Hang đá có đẹp hơn năm rồi không ? Nếu vậy thì tiếc quá, chúng ta hãy đến với Giêsu Hài Đồng trong tâm tình đơn sơ, khiêm tốn và nhạy cảm để nhận ra Hài nhi Giêsu bé nhỏ đó chính là Đấng cứu thế. Chúng ta hãy có được tâm tình của Đức Maria suy niệm những việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã thực hiện cho loài người : mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô được khởi đầu từ máng cỏ đơn hèn và cao đỉnh của tình thương đó là trên thập giá ?
 
Các mục đồng đã đến thờ lạy Chúa Hài đồng và dâng lên Chúa những lễ vật rất đơn sơ mà họ có : chiên cừu để hà hơi ấm, củi để sưởi… nhưng với tất cả tấm lòng của mình. Ba vua từ phương xa đến đem vàng, nhủ hương, mộc dược, đó là những lễ vật quý giá cùng với tấm lòng của họ. Như thế của lễ không quan trọng cho bằng tâm tình, cách để hiến dâng, mọi người chúng ta hãy xem coi, tôi đã làm gì và sẽ làm gì để dâng Chúa Hài Đồng trong dịp lễ Giáng Sinh này ?
Chúng ta thấy qua bài Tin Mừng, các mục đồng sau khi thờ lạy Chúa Hài Đồng, liền đem tin vui cho những anh chị em khác, chúng ta có đem tin vui, tin mừng của Chúa vào cuộc sống hay không? Là người Công Giáo, chúng ta cũng phải lo làm ăn sinh sống như những người khác, nhưng có điều chúng ta cũng phải có nét đặc trưng của mình : đó là sống bác ái, yêu thương và công bằng như Lời Chúa dạy, đó là một cách đem tin vui của Chúa vào cuộc sống.
 
5. Lễ giáng sinh năm nay cũng như những năm khác, đến rồi sẽ qua đi, khung cảnh nhộn nhịp cũng sẽ hết, nhưng mỗi lần lễ Giáng sinh qua, còn đọng lại gì nơi lòng của chúng ta? Chúng ta có nhạy cảm hơn với tiếng Chúa mời gọi trong lương tâm của chúng ta hay không ? Muốn thế, chúng ta hãy như Đức Maria, luôn luôn suy niệm trong lòng những biến cố về cuộc đời Đức Giêsu và những lời dạy của Người. Hãy nhạy cảm với tiếng Chúa gọi nhờ sự luyện tập. Như anh chàng da đen dễ dàng nhận ra chỗ dế ở nhờ thường nghe tiếng dế và như ba nhà thông thái luôn dõi tìm nơi trời cao nên mới có thể nhận ra dấu chỉ Thiên Chúa giáng trần.
 
 
Gp. Vĩnh Long
 
 

Nguồn: tinvui.org

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

For security, use of Google's reCAPTCHA service is required which is subject to the Google Privacy Policy and Terms of Use.

I agree to these terms.