CN III MÙA VỌNG – B

CN III MÙA VỌNG – B

 

ÔNG GIOAN – NGƯỜI LÀM CHỨNG – Lm. Px. Vũ Phan long, ofm ………….. 02 VUI MỪNG VÍ CHÚA SẮP ĐẾN – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái …………..……………… 10 CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG NĂM B – Lm. Ignatio Hồ Thông ……………………. 20 CHÚA ĐẾN MANG LẠI NIỀM VUI – Lm. Giuse Đinh Lập Liễm …..………………. 30 HÃY VUI LÊN – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm …………………….. …..…………….. 39 ANH EM HÃY VUI LÊN – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ …………………………………… 42 THIÊN CHÚA ẨN MÌNH ĐANG CHỜ CHÚNG TA – UBKT. HĐGM VIỆTNAM 46 NIỀM VUI SỐNG ĐẠO – Gm. Giuse Vũ Văn Thiên ...………………………………… 49 CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG – JM, Lâm Thy,ĐVD  ……………………………….… 53 TRỞ NÊN CHỨNG NHÂN DỌN ĐƯỜNG CHO – Lm. Vinhsơn Trần Minh Hoà. 65 CHỨNG NHÂN TRUNG THỰC – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ………………………… 58 KHIÊM NHƯỜNG – Lm. Giuse Trần Việt Hùng ……………………………………….. 65 GIÁ TRỊ CỦA LỄ GIÁNG SINH – Lm. Giuse nguyễn Hưng Lợi, CSsR …………. 67 CON NGƯỜI VÀ SỨ MẠNG ÔNG – Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện, CSsR ……… 71 BỆNH THÀNH TÍCH – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền …………………………………………… 79 CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG NĂM B – Lm. Phêrô Trần Thế Tuyên ……………….. 82

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
ÔNG GIOAN – NGƯỜI LÀM CHỨNG
Sứ mạng của Gioan là làm chứng cho Đức Giêsu. Sứ mạng này quan trọng đến nỗi trong Lời Tựa của Tin Mừng Gioan, ông được nhắc đến hai lần.
Lm. Px. Vũ Phan long, ofm
 
I. NGỮ CẢNH
Tin Mừng IV có một Mở đầu trong đó có Lời Tựa là một bài suy niệm cao sâu về mầu nhiệm Ngôi Lời (Ga 1,1-18), và Các chứng từ về Đức Giêsu, do Gioan Tẩy Giả, Anrê và Nathanaen nêu ra (1,19-51). Bản văn được đọc trong Phụng vụ hôm nay gồm một đoạn nhỏ trích từ Lời Tựa (1,6-8) và đoạn đầu trích từ Các chứng từ (1,19-28).
 
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành hai phần:

  1. Gioan là người làm chứng (1,6-8);
  2. Gioan làm chứng (1,19-28):

a) Làm chứng cho phái đoàn sứ giả (1,19-23),
b) Làm chứng cho người Pharisêu (1,24-28).
 
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
– lời chứng (19): Điểm đáng lưu ý nhất, đó là tác giả đã chọn ra từ trong ngôn ngữ thuộc ngành tư pháp từ ngữ “lời chứng/làm chứng” (martyria: 14 lần trong Ga)[1], và đã dùng từ đó mà mở ra hoạt cảnh này, cùng với động từ tương ứng là “làm chứng” (martyreô: 33 lần trong Ga; 2 lần trong TMNL). Cũng ghi nhận rằng các từ ngữ martyria và martyrein xuất hiện trong đa số các chương của TM IV ngoại trừ các chương 6, 9, 11, 14, 16, 17 và 20; tuy thế, các chương này cũng nói đến “làm chứng”. Các TMNL ưa dùng các từ như “công bố” (kêryssô) hoặc “loan báo Tin Mừng” (euangelizomai). Rất có thể tác giả TM IV đã dùng ngôn ngữ tư pháp do hoàn cảnh trong đó ngài viết Tin Mừng (giữa hoặc cuối những năm 90 [?], lúc mà quan hệ giữa người Do Thái và các Kitô hữu đã trở nên khá căng thẳng: x. Ga 9,22; 12,42; 15,26–16,2).

– người Do Thái từ Giêrusalem (19): Bởi vì họ có thể cử các tư tế và các thầy Lêvi đi, hẳn “người Do Thái từ Giêrusalem” chính là giới lãnh đạo Do Thái giáo.

– ông tuyên bố thẳng thắn (20): dịch sát là “ông không chối”.

– vị ngôn sứ (21): Đây chính là dung mạo ngôn sứ được hứa trong Đnl 18,18.

– cởi quai dép (27): Đây là công việc của một nô lệ. Khi chủ nhà đi thăm bạn, người nô lệ đi theo. Trước khi chủ bước vào nhà bạn, người nô lệ cúi xuống cởi quai dép cho chủ, và đứng cầm hai chiếc dép chờ chủ.
 
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Gioan là người làm chứng (6-8)
“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan” (Ga 1,6). TM IV đã giới thiệu Gioan bằng một câu như thế ngay giữa Lời Tựa. Đối diện với Ngôi Lời, ngôi vị Thiên Chúa toàn năng luôn luôn “có” từ muôn thuở đến muôn đời muôn kiếp (1,1-5), đây là Gioan, một con người tầm thường xuất hiện, đi từ hư vô ra cuộc sống. Sau khi đã nêu bật sự cao vời vô biên của Đức Kitô, tác giả mau mắn xác định sự cao cả của Gioan: ông được Thiên Chúa sai phái và có sứ mạng làm chứng cho ánh sáng: “Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng” (1,7). 

Sau Lời Tựa, tác giả bắt đầu bài tường thuật cách trang trọng, và cũng bằng một câu nói về Gioan: “Và đây là lời chứng của ông Gioan” (1,19). Chúng ta sẽ suy ngẫm về tư cách và công việc làm chứng của Gioan.
 
* Gioan làm chứng (19-28) 
] Ga 1,19-23
Vừa nghe câu mở này, chúng ta có cảm tưởng là mình được gợi ý nhìn vào một cảnh trong phòng xử án. Ấn tượng này dường như có cơ sở. Ngay tức khắc, tác giả giới thiệu Gioan như người đang bị thẩm vấn. Bản văn nói, “người Do Thái”, hẳn đây là giới lãnh đạo Do Thái giáo, đã gửi một phái đoàn đến đặt các câu hỏi cho Gioan. Phái đoàn đó gồm có các tư tế và mấy thầy Lêvi, tức đây là giới chức trách có nhiệm vụ chăm sóc Đền Thờ Giêrusalem. Câu hỏi thứ nhất họ đặt ra có vẻ nhẹ nhàng, không có gì thâm độc: “Ông là ai?”, câu hỏi bật ra như một kiểm tra về lý lịch. Tuy nhiên, câu trả lời của Gioan thì lại có gì đó trầm trọng. Thay vì khai lý lịch, ông lại trả lời trang trọng, hầu như là nói lên một lời thề, rằng ông không phải là người nào đó. Ông tuyên xưng rằng ông không phải là Đấng Kitô.

Thế là phái đoàn chính thức thúc ép ông tiếp, để có thể trả lời hết các câu hỏi nhằm điều tra lý lịch của ông. Các câu hỏi tuôn ra thật nhanh. “Ông có phải là ông Êlia không?” và “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?”. Với cả hai câu hỏi này, vị chứng nhân vẫn cứ trả lời “Không!”. Đến đây dường như đã cảm thấy bực bội khó chịu, phái đoàn hỏi: “Thế ông là ai?”. Tuy bị thúc bách như thế, nhưng với giọng hẳn là nhẹ nhàng và vẫn trang trọng mà nghe ra thì có vẻ khôi hài nữa, vị chứng nhân đáp bằng những lời lẽ trích từ sách Isaia: “Tôi là tiếng người hô [= tiếng nói của người hô] trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (x. Is 40,3).

Trong các cuộc xử án, việc xác minh lý lịch của người chứng chỉ là một chuyện thủ tục được thực hiện nhanh chóng, nhưng ở đây, lại không phải là như thế với vị chứng nhân tên là Gioan. Ông cứ toàn lo trả lời là ông không phải là ai thôi – như một kiểu xác minh lý lịch tiêu cực – chứ không nói ông là ai. Cuối cùng, khi ông xác minh về ông, bản lý lịch tự khai của ông lại cho biết ông là “tiếng người hô” (tiếng nói, phônê).

Hình ảnh vị chứng nhân cứ tránh né nêu lý lịch góp phần làm cho tấn bi kịch được triển khai. Óc tò mò của chúng ta bị kích thích. Các câu hỏi phát sinh: Đấng Kitô là ai mà Gioan nói ông không phải là Người? Và nếu Gioan chỉ là một tiếng nói, thì ông phải nói gì? 

Hoạt cảnh cuộc thẩm vấn vừa rồi không có trong các TMNL. Tuy nhiên, những suy diễn về Đấng Mêsia thì đã quá quen thuộc tại Paléttina vào thế kỷ i. Lúc đó người ta đang chờ đợi một số gương mặt trở lại. Trong TM Lc, ta thấy dân chúng rất tín nhiệm Gioan (x. Lc 3,15); rồi có chuyện vua Hêrôđê băn khoăn về cái chết của Gioan (Lc 9,7-9). Những tin đồn và suy đoán như thế là bối cảnh cho câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ Gioan khi họ đến gặp Đức Giêsu theo ý ông (x. Mt 11,2-6; Lc 7,18-23) cũng như cho các câu trả lời các môn đệ đã nêu ra khi Đức Giêsu hỏi người ta bảo Người là ai (Mt 16,13-16; Mc 8,27-29; Lc 9,18-20). Dù sao, Đấng Kitô sẽ là vị vua lý tưởng như Đavít; Người sẽ khôi phục quyền tự chủ trên đất nước và quy tụ người Do Thái đang tản mác lại. Người cũng có thể là như ngôn sứ Êlia, mà truyền thống tin là sẽ trở lại vào Ngày của Chúa (x. Ml 3,23). Người cũng có thể là chính Môsê trở lại. Gioan đã thề là ông không phải là bất cứ dung mạo trứ danh nào như thế, những dung mạo đang được mong chờ tha thiết. Ông chỉ là “tiếng nói”.

] Ga 1,24-28
Tuy nhiên, cuộc thẩm vấn vẫn tiếp tục. Người ta hỏi thế thì tại sao ông lại làm phép rửa. Tác giả ghi nhận là trong nhóm được cử đi, có những người thuộc phái Pharisêu, tức những người Do-thái giữ thật nghiêm nhặt Luật Môsê. Như thế, Gioan vừa mạnh mẽ từ chối đồng hóa mình với bất cứ dung mạo cánh chung nào đang được dân chúng chờ đợi, vừa làm chứng trước những đại biểu của toàn thể thế giới Do Thái.

Không có một chi tiết nào trong các nguồn văn chương Do Thái nói rằng Đấng Kitô, Êlia hoặc Môsê, hoặc vị ngôn sứ nào sẽ làm phép rửa. Như thế câu hỏi đăt ra cho Gioan là câu hỏi về quyền. Do quyền nào mà ông làm phép rửa? Một lần nữa, dường như Gioan lại né tránh câu hỏi. Ông chỉ trả lời theo cách bí ẩn. “Tiếng nói” chỉ nhìn nhận rằng ông làm phép rửa trong nước. Nhưng rồi ông nói rằng “có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1,26-27).

Dường như ở đây Gioan quy chiếu về một truyền thống Do Thái nói rằng Đấng Mêsia sẽ cứ ở trong tình trạng tăm tối cho tới khi Người được Êlia giới thiệu cho Israel. Lời ông nói, “Tôi thì tôi không phải là Đấng Kitô” hàm ý là Đấng Kitô đã có mặt đâu đây, nhưng đang còn ẩn mình, và tuy ẩn mình, Người rất vĩ đại.

Tác giả TM IV không nhấn mạnh về vai trò của Gioan là làm phép rửa cho Đức Giêsu như các TMNL (Mt 3,1-17; Mc 1,2-11; Lc 3,1-20); do đó ngài không gọi Gioan là “Tẩy Giả” (Mt 3,1) hay “người làm phép rửa” (Mc 1,4). Nếu ngài có nói đến phép rửa ấy chỉ là để đưa đến cuộc tra hỏi thôi. TM IV cũng không giới thiệu Gioan là như một dung mạo ngôn sứ kêu gọi người ta mau mau hoán cải vì Nước Thiên Chúa đã đến gần. Ngài chỉ quan tâm xác định chân tính của Gioan là “tiếng nói” thôi; ông phải nói điều gì đó. Thật ra cả bốn TM đều vận dụng bản văn Is 40,3 (Mt 3,3; Mc 1,3; Lc 3,4), nhưng trong TM IV, chính Gioan lại gán cho mình vai trò làm tiếng nói: tác giả muốn nhân vật Gioan của mình “nói cho chính mình”. Trong khi các TMNL trích Is 40,3 như là một lời bình về Gioan, câu này lại được Ga 1,23 trích như là lời của chính Gioan.  

Truyện về Gioan trong TM IV là truyện của riêng tác giả. Ngài có cách thức riêng cũng như ngôn ngữ và văn phong riêng mà miêu tả Gioan, mà chia sẻ cái nhìn của ngài về ông. Ở đây hoạt cảnh đúng là như một cuộc xử án gồm hai giai đoạn thẩm vấn Gioan. Ngôn ngữ của chương 1 (và của cả TM IV) phù hợp với bầu khí của phòng xử án: Ngài viết về lời chứng (martyria, c. 19), lời tuyên xưng (homologeô, 2 lần trong c. 20), và việc chối (arneomai, c. 20); ngài cũng viết về việc hỏi (erôtaô, cc. 19.21.25) và trả lời (apokrinomai, cc. 21; apokrisis, c. 22) và về những người đã được cử đi (apostellô, cc. 19.22.24)[2].
] Kết luận
Từ phân đoạn Ga 1,6-8, ta thấy Gioan không phải là đại sứ đặc mệnh toàn quyền; ông được Thiên Chúa sai đến với một mục tiêu rõ rẹt: “làm chứng về ánh sáng” (cc. 7.8). Sứ mạng của ông phải được nhìn trong viễn tượng vũ trụ, siêu lịch sử, nhưng vai trò của ông là chứng nhân và chỉ là chứng nhân mà thôi. Nhiệm vụ của ông tập trung vào việc làm cho Israel nhận biết Đức Giêsu. Tuy nhiên, tác giả cũng muốn nói một điều quan trọng hơn khi tinh tế đặt đối lập dung mạo Gioan, người được Thiên Chúa sai đến (1,6), với các tư tế và các thầy Lêvi được người Do-thái gửi đến từ Giêrusalem (1,19). Cuộc thẩm vấn có thật, nhưng đây chỉ là cuộc đụng chạm giữa hai đoàn tiền quân.
 
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Sứ mạng của Gioan là làm chứng cho Đức Giêsu. Sứ mạng này quan trọng đến nỗi trong Lời Tựa, ông được nhắc đến hai lần: một lần như là “chứng nhân” (Ga 1,6) và lần kia thì nhắc lại lời chứng của ông (1,15). Do đó, cứ theo TM IV, hẳn là ông phải được gọi là “Gioan người làm chứng”. Danh hiệu mà Hội Thánh Đông phương gán cho ông, “Gioan vị Tiền Hô”, mở ra hai sứ mạng của ông, làm phép rửa và làm chứng.

2. Gioan là chứng nhân của ánh sáng (1,6-8). Điều nghịch lý là ánh sáng lại cần đến một chứng nhân. Ánh sáng thật đang rạng soi cho mọi người (x. 1,9), thế mà không phải là loài người đang tự nhiên sống dưới ánh huy hoàng của ánh sáng này. Như một kho báu được chôn giấu, trước tiên ánh sáng này cần được khám phá; chỉ sau đó ánh sáng mới tỏa rạng và mọi người có thể thực sự thấy được. Đặc điểm của Đức Giêsu là thực tại chân thật của Người không chỉ thấy được ở bề mặt, và không phải bất cứ ai cũng có thể tiếp cận Người. Người không tỏ mình ra với cung cách áp đảo, Người không ép buộc bất cứ ai; người ta luôn luôn có thể tránh Người và sống không cần Người. Đức Giêsu là ánh sáng đòi hỏi tự do quyết định của con người. Chính vì Người ở trong tình trạng ẩn mình, Đức Giêsu cần có những chứng nhân. Gioan là chứng nhân đầu tiên của Người, giúp cho người ta có thể đến với Người để nhận được ánh sáng. Nhưng cả lời chứng của Gioan cũng không phải là một bằng cớ bó buộc: mọi người phải tin nhờ ông (1,7). Chỉ ai nhờ ông mà tin thì mới đến được với Đức Giêsu là ánh sáng.

3. Gioan nói như chứng nhân và khẳng định tính khả tín của chính ông. Ông nói thẳng ra ông không phải là ai (1,19-21) và ông là ai (1,22-23) và ai sẽ đến sau ông (1,25-27). Ngay trong Lời Tựa, tác giả TM đã cho biết: “Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (1,8). Trước tiên ông nói ông không là ai, như để tránh che mất Đấng ông phải làm chứng cho, nếu như ông lo khẳng định về bản thân. Rồi khi phải nói ông là ai, thì ông cho biết ông chỉ là tiếng của người hô trong hoang địa: hoạt động của ông có tầm quan trọng đặc biệt vì được chính Kinh Thánh loan báo, được Thiên Chúa quy định, nhưng chỉ là một tiếng nói loan báo rằng Chúa đang đến và khuyến khích người ta dọn lòng đón tiếp Người.

4. Về nhân vật cao trọng mà ông làm chứng cho, Gioan chỉ khẳng định hai điều: Người đang ở giữa họ, nhưng họ không nhận biết Người; Người cao trọng đến mức chính Gioan cũng không xứng đáng phục vụ Người theo cách thức của một nô lệ. Ẩn mình và cao trọng vẫn là hai nét tiêu biểu của Đức Giêsu. Người là ánh sáng tỏa rạng trong tình trạng ẩn tàng đồng thời là ánh sáng chân thật duy nhất.
5. Bất cứ Kitô hữu nào hôm nay cũng cần thấy mình là một chứng nhân như Gioan. Họ biết mình không là gì cả khi sánh với Đấng họ phải làm chứng cho. Tuy nhiên, chính Đấng ấy lại muốn chọn họ để tỏ mình ra cho thế giới. Tình trạng cao cả mà thật ra thấp hèn, thấp hèn nhưng cũng cao cả, đã là tư cách của Gioan, thì cũng là thân phận của mọi Kitô hữu.
 
Lm. Px. Vũ Phan long, ofm
 
VUI MỪNG VÍ CHÚA SẮP ĐẾN
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
 
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Trong cuộc sống, chúng ta thường gặp những niềm vui: vui khi thấy những nụ hoa hé nở trong vườn, vui khi nhìn những cặp vợ chồng trẻ hân hoan trong ngày cưới, vui với những tù nhân mãn hạn trở về. Ngày xưa, một ngôn sứ cũng đã dùng những hình ảnh tương tự để loan báo niềm vui khi Chúa đến. Thật vậy, khi Chúa đến, Ngài sẽ làm cho cuộc sống ta tràn ngập niềm vui. Vậy chúng ta hãy chuẩn bị đón tiếp Ngài.
II. GỢI Ý SÁM HỐI

  • Chúng ta không nghĩ rằng sống đạo là một niềm vui, trái lại nhiều khi còn coi đó là gánh nặng khó chịu.
  • Chúng ta ít nghĩ đến việc làm cho những người chung quanh được vui tươi hạnh phúc.
  • Chúng ta không sẵn sàng để cho Chúa giải thoát chúng ta khỏi những trói buộc của tội lỗi và những đam mê bất chính.

 
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Is 61, 1-2. 10-11
Ðoạn này thuộc phần thứ ba sách Isaia (các chương 56-66) do một (hoặc một số) tác giả không được biết tên nên người ta tạm gọi là Ðệ Tam Isaia.
 
Có hai giả thuyết về thời gian soạn tác phần này: a/ Ðó là thời sau lưu đày từ lúc xây xong Ðền thờ mới cho đến năm 445 trước công nguyên (Nhóm dịch CGKPV); b/ Một vài năm trước khi kết thúc cuộc lưu đày. Nội dung đoạn được trích hôm nay xem ra phù hợp với giả thuyết thứ hai hơn.
 
Tác giả nghĩ đến lúc được giải thoát khỏi ách lưu đày.

  • Trong phần đầu (cc 1-2), tác giả tự đồng hóa mình với một nhân vật được Thiên Chúa chọn làm sứ giả đặc biệt để loan tin vui ấy. “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”.
  • Trong phần sau (cc 10-11), tác giả lại tự đồng hóa mình với dân được giải thoát: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, vì Ngài đã mặc cho tôi áo phần rỗi và choàng áo công chính cho tôi…”

Sau này, trong bài ca Magnificat, Ðức Maria đã lấy lại một số tâm tình của tác giả; và Ðức Giêsu, tại hội đường Nadarét, cũng đã áp dụng những lời này cho chính bản thân Ngài.
 
2. Ðáp ca: Trích bài Magnificat, Lc 1, 46-48. 49-50. 53-54.
Bài ca diễn tả tâm tình của Ðức Maria. Ðó cũng là tâm tình của Ðệ Tam Isaia ngày trước, mà cũng là tâm tình của Hội Thánh ngày nay: vui mừng vì được Chúa đến thăm và dùng mình làm sứ giả loan báo Tin Mừng của Chúa.
 
3. Bài đọc II: 1 Tx 5, 16-24
Thêxalônica là một giáo đoàn mà thánh Phaolô rất quan tâm, bởi vì ngài mới thành lập giáo đoàn này không bao lâu thì phải bị buộc rời họ đi xa. Nhưng dù non trẻ, giáo đoàn này đã sống đạo khá tốt. Bởi thế khi biên thư cho họ, Phaolô bảo họ một mặt hãy luôn vui mừng trong Chúa và mặt khác hãy cầu nguyện không ngừng và cảm tạ Chúa trong mọi việc.
 
4. Tin Mừng: Ga 1, 6-8. 19-28
Sứ giả loan Tin Mừng mà Ðệ Tam Isaia đã tiên báo chính là Gioan Tiền hô, và Tin Mừng mà Gioan công bố chính là Ðức Giêsu.
 
Ðoạn Tin Mừng Chúa nhật tuần trước đã cho biết Gioan là người dọn đường và ông đã dọn đường như thế nào. Ðoạn Tin Mừng hôm nay (của thánh Gioan Tông đồ) cho biết nhiều hơn: Ðấng Messia mà Gioan dọn đường chính là Ánh sáng. Ngài đến thế gian như ánh sáng chiếu soi trong đêm tối.
 
Phần Gioan tiền hô, ông rất khiêm tốn: nói rõ mình không phải là Messia và tuyên bố Ðấng Messia là Ðức Giêsu cao trọng hơn ông.
 
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Vui mừng theo mệnh lệnh?
Lời kêu gọi rất rõ của Hội Thánh trong Thánh lễ hôm nay là “Anh em hãy vui lên”. Nhưng có thể vui mừng theo mệnh lệnh như thế chăng? Vả lại, trong cuộc sống cũng có nhiều nỗi buồn. Ðâu phải bất cứ lúc nào hễ Hội Thánh kêu chúng ta vui lên thì chúng ta vui lên ngay được?
 
Thiết tưởng ta nên phân biệt cho rõ. Cuộc đời gồm nhiều phương diện lắm khi không hoàn toàn phối hợp hài hòa với nhau. Bởi thế người ta vẫn có thể vui về phương diện này đang khi gặp điều không vừa ý thuộc phương diện khác. Chẳng hạn nghèo mà vui, bị sỉ nhục vẫn vui v. v. Phương diện lúc nào cũng có thể vui chính là phương diện siêu nhiên: vui vì Chúa, vui trong Chúa. Thứ niềm vui này ở tận trong lòng nên bất cứ thứ xáo trộn bên ngoài nào cũng không ảnh hưởng tới nó được.
 
Tác giả Sách Huấn ca đã viết: mọi việc đều có thời của nó. Có thời để khóc và có thời để cười, có thời để buồn và có thời để vui… Hội Thánh chỉ cho chúng ta biết rằng thời để vui chính là thời bây giờ đây, thời chuẩn bị đón Chúa Giáng sinh. Chúng ta vui vì Chúa đã “công bố năm hồng ân” (bài đọc I), vì “Chúa đã đoái nhìn phận hèn tôi tớ” của chúng ta (Bài đáp ca) và vì ý Thiên Chúa muốn rằng chúng ta luôn được hân hoan hạnh phúc (Bài Thánh Thư).
 
* 2. Vui và sướng
Trong bài đọc II, Thánh Phaolô bảo: “Anh em hãy vui luôn”. Flor McCarthy có những suy nghĩ sau đây về vui và sướng (joy and pleasure).
 
Vui và sướng rất khác nhau:
Ta có thể vạch kế hoạch để mình được sướng, nhưng không thể làm thế để được vui.

  • Sung sướng đến ngay, còn niềm vui thường đến sau; và niềm vui ngọt ngào hơn cả là thứ niềm vui đến sau đau khổ.
  • Sung sướng đến do mình trả lời “có” với mình; niềm vui đến do mình trả lời “không” với chính mình.
  • Sung sướng giống như một ánh lửa loé lên trong đêm tối, chiếu sáng mọi sự trong giây lát rồi tắt lịm, sau đó ta cảm thấy tối tăm và trống rỗng hơn bao giờ hết; Niềm vui giống như một ngọn lửa trong tim, sau đó dù lửa đã tàn nhưng vẫn còn để lại hơi ấm trong ta.

 
* 3. Vui luôn
Thánh Phaolô kêu gọi “Anh em hãy vui mừng luôn mãi”.
“Luôn mãi” là cả khi bị người ta đối xử xấu với mình nữa chăng?
“Luôn mãi” là cả khi làm việc thất bại nữa chăng?
“Luôn mãi” là cả khi người thân bị chết hay bị bệnh nặng nữa chăng?
“Luôn mãi” ngay cả khi đã phạm tội chăng? v. v.
Chắc chắn là thánh Phaolô đã nghĩ đến những tình huống đó, dù vậy Ngài vẫn kêu gọi “Hãy vui mừng luôn mãi”. Tại sao?
 
Liền sau lời kêu gọi ấy, thánh Phaolô viết tiếp “Hãy cầu nguyện không ngừng”. Ðúng rồi, nếu gặp phải những tình huống ấy mà biết cầu nguyện thì mọi buồn sầu lo lắng sẽ sớm tan biến và trở thành niềm vui.
 
4. Có Ðấng mà các ngươi không biết, Ngài sẽ đến sau tôi
Ðấng mà người ta không biết chính là Thiên Chúa. Thật vậy, rất nhiều người không biết Thiên Chúa, thậm chí còn không tin là có Thiên Chúa. Ðiều này cũng tự nhiên thôi, vì chính Thánh Kinh cũng nói rằng khả năng con người không thể biết được Thiên Chúa: Thánh Gioan tông đồ đã viết “Chưa ai trông thấy Thiên Chúa bao giờ” (Ga 1, 18); Thánh Phaolô cũng viết rằng Thiên Chúa là Ðấng “ngự trong ánh sáng siêu phàm, Ðấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy” (1 Tm 6, 16).
 
Thế nhưng, vì yêu thương loài người, Thiên Chúa đã khấng cho loài người biết Ngài, qua Ðức Giêsu con yêu dấu của Ngài nhập thế sống giữa loài người chúng ta. Gioan Tiền hô đã báo cho người ta biết tin vui đó: “Ngài đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết”.
 
Chúng ta là những người được biết, vậy chúng ta hãy vui mừng; và cũng như Gioan, chúng ta hãy chỉ Ngài cho nhiều người khác được biết.
 
5. Ðiều kiện của người làm chứng
Ðiều kiện tiên quyết của người làm chứng là sống đúng như chứng từ của mình.
Gioan Tẩy giả là người làm chứng như thế. Ðoạn Tin Mừng hôm nay viết: “Ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Trung thực với chứng từ này, một mặt ông cố gắng chỉ cho người ta thấy Ánh Sáng là ai, mặt khác khi có người tưởng ông là Ánh sáng ấy thì ông thẳng thắn phủ nhận. Rồi khi Ánh sáng xuất hiện, ông âm thầm rút lui: “Ngài phải sáng lên, còn tôi phải mờ đi”.
 
Câu chuyện sau đây được thuật lại trong quyển The Tablet (Tháng 5 năm 1998): Một cặp vợ chồng trẻ kia đều là bác sĩ. Họ đã học chung với nhau ở Ðại học Y khoa, quen nhau, rồi cưới nhau. Người vợ là công giáo, người chồng thì không. Ðã nhiều lần người vợ cố gắng thuyết phục chồng Rửa Tội, nhưng anh không hề quan tâm, có lẽ vì chưa thấy đạo công giáo có cái gì hay.
 
Thế rồi trong một đợt thanh lý công nhân viên, người chồng bị bắt đi cải tạo cùng với một số nhà trí thức khác. Người vợ không vào tù nhưng bị làm áp lực bỏ đạo và ly dị chồng. Nhiều nữ bác sĩ khác cùng cảnh ngộ đã đành chìu theo những áp lực ấy. Nhưng bà này vẫn cương quyết sống theo niềm tin và tình yêu của mình, mặc dù gặp phải rất nhiều khó khăn.
 
Nhưng một ngày kia, người chồng được trả tự do cùng với nhiều bác sĩ khác. Xảy ra rất nhiều tình huống trớ trêu dở khóc dở cười: nhiều bà vợ vui mừng vì chồng trở về nhưng không dám đón chồng vì đã trót ly dị. Riêng cặp vợ chồng này thì niềm vui rất trọn vẹn.
 
Sau đó người chồng xin gia nhập đạo công giáo. Anh đã thấy được giá trị của đức tin và tình yêu hiện thân nơi vợ mình. Ðó là một chứng từ, không phải bằng lời nói suông mà bằng cả cuộc sống.
 
6. Làm chứng cho Ðức Kitô
Linh mục Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Có gia đình kia đi nghỉ hè một thời gian dài bên bờ biển. Ngày nọ, mấy đứa con đang nô đùa, xây những lâu đài bằng cát trên bãi biển, thì có một bà cụ xuất hiện. Tóc bà rối bời trong gió, quần áo bẩn thỉu rách rưới. Bà vừa lẩm bẩm một mình, vừa cúi nhặt những vật gì đó trên mặt cát rồi cho vào giỏ.
 
Cha mẹ lũ nhỏ gọi chúng lại và bảo chúng hãy tránh xa mụ đàn bà đó. Khi đi ngang qua, bà mỉm cười với họ, nhưng mọi người không hề tỏ dấu đáp lại.
 
Nhiều tuần sau, cả gia đình mới biết rằng đã lâu lắm rồi, người đàn đà ấy đã tự nguyện, làm công việc lượm các mảnh thủy tinh rơi rớt trên bãi biển, để bọn trẻ khỏi bị đứt chân.
]]]  
“Giữa các ngươi có một Ðấng mà các ngươi không biết” (Ga. 1, 26).
Sứ mạng của Gioan Tiền Hô là làm chứng cho Sự Sáng đích thật chính là Ðức Kitô. Ðức Kitô đến để chiếu ánh sáng cho trần gian. Toàn bộ Tin mừng Gioan chỉ là để trả lời cho câu hỏi này: “Giêsu Nagiarét, Người là ai?” Gioan không dùng danh từ Phúc âm mà chỉ dùng từ ngữ “chứng nhân”. Ðộng từ “làm chứng” được Gioan nhắc đến 33 lần. Tin mừng Gioan được khai mở bằng lời chứng của Gioan Tiền Hô và kết thúc với minh chứng của Gioan Tông đồ: “Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra. Chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thực” (Ga. 21, 24).
 
Qua lối sống khổ hạnh khác người, qua lời rao giảng sám hối, và qua lời chứng: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi” (Ga. 1, 23) đã minh chứng Gioan là vị Tiền Hô của Ðấng Cứu Thế, là chứng nhân của Thiên Chúa. Gioan chỉ đứng ra làm chứng và báo trước ngày Chúa xuất hiện, rồi rút lui vào bóng tối.
 
Có thể nói, Gioan là người tôi tớ, còn Ðức Giêsu là ông chủ, Gioan là đèn soi, còn Ðức Giêsu là ánh sáng, Gioan là tiếng kêu, và Ðức Giêsu là lời hằng sống.
 
Như Gioan, người tín hữu cũng sẽ là chứng nhân cho Ðức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, Teihard de Chardin đã ví von rất sống động: “Ánh sáng xuyên qua những áng mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta mọi người cũng đoán được có Ðức Kitô”. Bà cụ trong câu chuyện của Cha Mello phản ánh một tấm gương sáng ngời về lòng thương người, luôn quan tâm tới kẻ khác. Cụ sống khó nghèo, âm thầm, hy sinh thời giờ sức lực của mình, để cho niềm vui của người khác được trọn vẹn.
 
Martin Luther King viết: “Chúng ta không chỉ làm chứng bằng lời nói, mà còn làm chứng bằng cuộc sống của mình”. Có những tâm hồn dần dần cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ tới. J. Basquin nói: “Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”.
 
Ước gì khi nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng có thể nói như đã nói về Thánh Gioan Vianey “Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một con người”.
]]]  
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng lời rao giảng và bằng gương sáng đời sống chúng con. Xin cho chúng con biết sống khiêm nhường: không hiếu danh cũng chẳng ganh tị, không cao ngạo cũng chẳng cậy uy. Nếu có khi nào thành công việc gì xin cho chúng con biết hướng vinh dự về cho Chúa, để qua đó, người ta nhận biết Chúa là Ðấng quyền năng và yêu thương con người. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
 
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta đã tiến đến Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng, niềm vui ngày Chúa đến dịp lễ Giáng Sinh đã gần kề. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vui mừng cầu nguyện và tạ ơn. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ước nguyện của chúng ta:
 
1. Thánh Gioan đã dọn đường về Ðức Giêsu là ánh sáng, là niềm vui cứu độ / Xin cho cộng đoàn Hội thánh trở thành chứng tá cho Chúa xuyên qua việc gieo rắc và bồi dưỡng niềm vui cho mọi người.
2. Ðức Giêsu được sai đi để đem Tin mừng cho người nghèo khổ bất hạnh / Xin cho các nhà cầm quyền trở thành những người bênh vực kẻ hèn yếu và đem an vui cho những người thiếu may mắn.
3. Ðức Giêsu đến trần gian để băng bó những tấm lòng tan nát / Xin cho những người nghèo đói thất nghiệp, tù đày, bị bỏ rơi / tìm được niềm an ủi và hy vọng nơi những người họ gặp gỡ.
4. Chúng ta đã được hiệp thông với Ðức Giêsu qua các Bí tích / Xin cho mọi người trong cộng đồng họ đạo chúng ta / luôn thắp lên trong đời mình ánh sáng của Chúa / để sưởi ấm và soi sáng cho mọi người.
 
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đang sửa soạn để đón nhận niềm vui ngày Ðức Giêsu Giáng Sinh, xin Chúa sai Thánh Thần Chúa đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con để chúng con trở thành niềm an vui cho mọi người chúng con gặp gỡ. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô.
 
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
 
 
 
 
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG
Lm. Ignatio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Mùa Vọng đều ngân  vang cùng một sứ điệp mời gọi các tín hữu: “Hãy vui lên, Chúa sắp đến gần rồi”.
Is 61: 1-2a, 10-11
Bài  đọc I loan báo Tin Mừng cho những ai nghèo khổ, bất hạnh, bị giam cầm…biết rằng năm hồng ân của Chúa sắp đến rồi. 
1Th 5: 16-24    
Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca hãy vui luôn mãi và không ngừng tạ ơn Chúa vì những thiên ân mà họ đã lãnh nhận được. 
Ga 1: 6-8, 19-28      
Tin Mừng tường thuật chứng từ của Gioan Tẩy giả, thánh nhân khẳng định rằng Đấng mà muôn dân mong đợi hiện đang ở giữa anh em.  
 
BÀI  ĐỌC I:   Is 61: 1-2a, 10-11      
Bài  đọc I nầy được hình thành bởi hai đoạn trích khác nhau từ chương 61 của sách I-sai-a. Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a) là phần mở và đoạn trích thứ hai (61: 10-11) là phần kết của một bài thánh thi. Đây là bài Thánh Thi Chúc Tụng được cộng đoàn xướng đáp.      
 
1. Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a):      
Chúng ta nhận ra đoạn trích thứ nhất này mà vào một ngày sa-bát, trong hội đường Na-da-rét, Đức Giê-su công bố trước cộng đoàn (Lc 4: 18-20). Sau khi công bố xong, Ngài ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Ngài. Ngài bắt đầu ngỏ lời với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh qu‎ý vị vừa nghe”. Như vậy Đức Giê-su áp dụng cho chính mình lời loan báo này: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…”. Đây cũng là đoạn trích mà Đức Giê-su cũng sẽ viện dẫn để trả lời cho những sứ giả mà Gioan Tẩy giả đang bị giam trong tù phái đến để hỏi Ngài: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?” (Lc 7: 19).  Vì  thế, vị ngôn sứ nầy là ai mà Đức Giê-su quy chiếu đến hai lần? Và sứ điệp của  ông ngỏ lời với ai?      
 
Œ Tác giả:      
Những sự kiện được định vị vài năm sau năm 538 trước Công Nguyên, năm những đoàn người lưu đày ở Ba-by-lon lần đầu tiên được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Tác giả của bài thánh thi nầy là một vị ngôn sứ nặc danh sống ở giữa những người hồi hương tại Giê-ru-sa-lem. Ông thường được các nhà chuyên môn gọi biệt danh là I-sai-a đệ tam, hay I-sai-a thời hậu lưu đày (Is 56-66) để phân biệt với hai vị tiền nhiệm của ông là vị ngôn sứ nặc danh khác thời lưu đày được gọi biệt danh là I-sai-a đệ nhị (Is 40-55) và ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, vị ngôn sứ thời tiền lưu đày (Is 1-39).       
 
Vào Chúa Nhật I Mùa Vọng, chúng ta đã đọc lời khẩn nguyện của vị ngôn sứ thời hậu lưu đày nầy. Bài thánh thi được trích dẫn hôm nay, xét về niên biểu, có trước lời khẩn nguyện. Trong bài thánh thi nầy, vị ngôn sứ biện minh sứ mạng của mình: ông đã được Thần Khí Chúa xức dầu tấn phong. Đây là cuộc xức dầu tấn phong thiêng liêng bởi vì không có nghi thức xức dầu tấn phong cho các ngôn sứ. Chính Thiên Chúa đã chọn các ngôn sứ của Ngài và ủy quyền cho họ nói thay cho Ngài.      
 
 Sứ điệp:      
Vị ngôn sứ có sứ mạng là loan báo “Tin Mừng” (ông lấy lại diễn ngữ của vị tiền nhiệm của mình là I-sai-a đệ nhị được trích trong bài đọc I của Chúa Nhật II Mùa Vọng). Tin Mừng nầy có thể được tóm lược như sau: “Phúc thay những người nghèo khổ!”, âm vang lời công bố những mối phúc thật của Đức Giê-su.       
 
Những người hồi hương thật sự vỡ mộng trước thực trạng muôn vàn khó khăn trong công cuộc tái thiết quê hương. Họ là những người nghèo hèn với tấm lòng tan nát. Vị ngôn sứ gọi họ là những “người bị giam giữ” cho dù hiện nay họ đã được phóng thích. Qua những từ ngữ đó, ông muốn nhấn mạnh nỗi cùng cực khốn khổ của họ mà hình ảnh sau đó được giải thích rõ hơn: “công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa”, nghĩa là năm mà những người nô lệ được phóng thích, mọi nợ nần được tha bổng, đất đai được phân phối lại. “Năm hồng ân” được cử hành cứ năm mươi năm một lần. Năm hồng ân này thật ra khai triển “năm sa-bát”, năm được cử hành cứ bảy năm một lần. Năm hồng ân biểu tượng một lý tưởng công bình xã hội.      
 
Đây là diện mạo của những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà Kinh Thánh gọi là “anawin”. Chữ “anawin” không thể dịch được, nó bao hàm sự nghèo khổ vật chất, đức khiêm hạ và niềm tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Đặc ngữ này mang một nét nghĩa căn bản là “còng lưng xuống”, còng lưng xuống dưới gánh nặng của sự nghèo khó, của sự nhục nhã, nhưng cũng “sấp mình xuống” vì thái độ tôn giáo của họ, niềm tin tưởng phó thác hoàn toàn vào lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Đây là một khái niệm căn bản của Cựu Ước cũng như Tân Ước. Chính những kẻ bé mọn nầy mà Đức Giê-su sẽ ưu đãi.       
 
Một trăm năm sau đó, một vị ngôn sứ khác, Xô-phô-ni-a, đã tiên báo cuộc thăng tiến của những người nghèo nầy: “Ngày ấy, ngươi sẽ không còn phải hổ thẹn vì mọi hành vi ngang trái chống lại Ta. Bấy giờ, Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng, và ngươi sẽ không nghêng ngang trên núi thánh của Ta nữa. Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa. Số dân Ít-ra-en còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt. Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ nữa” (Xp 3: 11-13).      
 
2. Đoạn trích thứ hai (61: 10-11).      
Được Thiên Chúa an ủi như vậy, cộng đoàn xướng lên những lời chúc tụng: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Thiên Chúa, vâng nhờ Người, tôi hớn hở biết bao”. Những lời hoan ca nầy được diễn tả bởi hai hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất là “trang phục”: Giê-ru-sa-lem được mặc hồng ân cứu độ, được khoắc áo choàng công chính như chàng rể chỉnh tề khăn đóng, tựa nàng dâu lộng lẫy điểm trang. Hình ảnh thứ hai là “khu vườn”: Giê-ru-sa-lem được sánh ví với khu vườn được Thiên Chúa chăm sóc tận tình để “trở hoa công chính và vinh quang trước mặt muôn dân”.      
 
3. Ý nghĩa của việc nối kết hai đoạn trích nầy:       
Khi đặt hai đoạn trích đầu và cuối bài thánh thi nầy bên cạnh nhau, Phụng Vụ mời gọi chúng ta hãy gẫm suy mối liên hệ sâu xa giữa “ơn cứu độ” mà Đấng Mê-si-a hứa ban và “vẽ đẹp lộng lẫy” của Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa nơi dân Thiên Chúa. Sách Khải Huyền lấy lại hình ảnh Giê-ru-sa-lem thiên quốc như Tân Nương được điểm trang lộng lẫy nhờ máu Con Chiên.      
Một viễn cảnh như thế không thể là viễn cảnh của vị ngôn sứ thuộc thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên. Tuy nhiên, cách thức tiếp cận lịch sử như vậy có thể hiểu được nhờ những đau khổ của nhóm nhỏ trung thành còn sót lại, những “người nghèo hèn” nầy mà nỗi khốn khổ của họ lôi kéo lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Và chính qua họ mà lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa trải dài cho đến tận cùng thế giới.      
 
BÀI  ĐỌC II:   1Th 5: 16-24      
Thư  thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Thê-xa lô-ni-ca là bản văn xưa nhất của văn chương Ki-tô giáo. Bức thư nầy được viết vào mùa đông năm 50-51. Thánh Phao-lô đã thiết lập giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vào mùa hè năm 50, nhưng ngài đã phải vội vàng trốn chạy khỏi thành phố vì người Do thái phẩn nộ tìm cách giết ngài: lời rao giảng của thánh nhân khiến nhiều người Ít-ra-en lẫn lương dân ăn năn trở lại. Vì thế, thánh nhân thật sự bận lòng đến cộng đoàn non trẻ bị hăm dọa nầy. Sau nầy, cộng tác viên của ngài là ông Ti-mô-thê quay trở lại Thê-xa-lô-ni-ca và thuật lại cho thánh nhân những tin tốt lành: dù bị người Do thái đe dọa và quấy nhiễu, cộng đoàn Thê-xa-lô-ni-ca non trẻ nầy vẫn kiên vững trong niềm tin của mình. Thế nên, thánh Phao-lô viết bức thư nầy gởi đến cho họ với cung giọng nồng nàn chan chứa niềm hân hoan và cảm tạ. Đoạn trích thư hôm nay được định vị vào cuối thư bao gồm những lời khuyên bảo và khích lệ.      
 
1. Vui mừng, cầu nguyện và tạ ơn:      
Thánh nhân khuyên ba điều quan trọng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.
  
Trước hết, “Anh em hãy vui mừng luôn mãi”. Thánh Phao-lô thường nhấn mạnh niềm vui Ki-tô giáo. Niềm vui là hoa quả của Thần Khí, Đấng hằng ở với người Ki-tô hữu ngay cả trong gian nan thử thách. Chính thánh nhân luôn “chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2Cr 7: 4). Niềm vui này phát xuất từ niềm xác tín là được dự phần vào vương quốc Thiên Chúa ngay từ cõi thế nầy.      
 
Tiếp  đó, “Hãy cầu nguyện không ngừng”. Thánh nhân hầu như luôn luôn khuyên cầu nguyện “không ngừng”, “mọi lúc”, “đêm cũng như ngày”. Chung chung, thánh nhân cầu nguyện với Chúa Cha, qua Chúa Ki tô, nhờ Chúa Thánh Thần. Hiếm khi thánh nhân cầu nguyện trực tiếp với Chúa Ki-tô. Thánh nhân nói, chính nhờ Thần Khí mà chúng ta mới có thể thân thương với Thiên Chúa là “Cha”.       
 
Sau cùng, “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”. Tạ ơn là một cấu tố của lời cầu nguyện, xoay quanh lời chúc tụng. Truyền thống Do thái dành một chỗ đặc biệt cho tâm tình cảm tạ tri ân. Bài ca “Chúc Tụng” (Benedictus) là bài ca cảm tạ tri ân: “Chúc tụng Thiên Chúa…”. Thánh Phao-lô hầu như luôn luôn bắt đầu bức thư của mình với lời chúc tụng Thiên Chúa.      
 
2. Ân ban Thần Khí:      
Đây là lời khuyên thứ hai. Các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca coi nhẹ những ân ban Thần Khí. Họ nghi ngại những người được ơn ban Thần Khí. Có lẽ họ là những người Hy lạp phương bắc, ít sôi nổi như những người Cô-rin-tô… Quả thật, thánh Phao-lô viết từ Cô-rin-tô ở đó những ân ban Thần Khí nhiều vô kể. Thánh nhân khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Anh em chớ dập tắt Thần Khí”. Cứ để mỗi người nói lên những ân ban mà mình nhận được, ngay cả ơn nói tiên tri. Điều quan trọng là phải biết “cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy; còn tất cả những gì xấu thì lánh cho xa”.      
3. Ơn thánh hóa:      
Đây là đề tài rất tâm đắc với thánh Phao-lô. Sau này, thánh nhân sẽ khai triển sâu xa hơn: chúng ta được thánh hóa nhờ tác động của Thiên Chúa chứ không do nổ lực cá nhân của mình.       
 
Việc kể con người được phân chia thành ba phần: thần trí, tâm hồn và thân xác, không gặp thấy bất cứ nơi nào khác trong các thư của thánh Phao-lô. Đây không là cách diễn tả con người được phân chia thành ba phần. Người Hy lạp cũng như người Do thái đều không quan niệm con người theo cách phân chia như thế. Ở đây, thánh Phao-lô chỉ muốn nói đến toàn diện con người. Theo thói quen của mình, thánh nhân khai triển chữ “toàn diện” đi trước và tô đậm chữ “thần trí” theo sau. Chữ “thần khí” này mang lấy ý nghĩa Ki-tô giáo: chính thần trí con người rộng mở trước tác động của Thần Khí.      
 
TIN MỪNG:   Ga 1: 6-8, 19-28      
Tin Mừng hôm nay được trích từ hai đoạn văn khác nhau, một được trích từ Tựa Ngôn (1: 1-18) giới thiệu “chức năng chứng nhân” của Gioan Tẩy giả (1: 6-8) và một khác được trích từ Phần Mở Đầu của Tin Mừng Gioan (1: 19-2: 12) trình bày “lời chứng” của Gioan Tẩy giả (1: 19-28).   
   
1. Chức năng chứng nhân của Gioan Tẩy giả (1:6-8).      
Tựa Ngôn là một bài thánh thi về “Ngôi Lời” bị ngắt nhịp hai lần để giới thiệu Gioan Tẩy giả là chứng nhân của Đức Ki-tô (1: 6-8 và 15). Lần ngắt nhịp thứ nhất được trích dẫn ở đây như phần mở đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay.       
 
Trong phần mở đầu nầy, tác giả Tin Mừng thứ  tư không đề cập đến sứ điệp của Gioan Tẩy giả cũng như ‎ý nghĩa phép rửa của thánh nhân, nhưng tô đậm chức năng “chứng nhân” của thánh nhân. Đối với Tin Mừng Gioan, “chứng nhân” là chức năng quan trọng bậc nhất như tác giả nhấn mạnh trong thư thứ nhất của mình: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống…Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa…” (1Ga 1: 1-4).       
 
2. Lời chứng của Gioan Tẩy giả  (1: 19-28):      
Sau khi giới thiệu chức năng chứng nhân của Gioan Tẩy giả, tác giả Tin Mừng Gioan trình bày lời chứng của Gioan Tẩy giả.
 
Gioan Tẩy giả phủ nhận tất cả những gì người ta nghĩ tưởng về ông để chỉ tập trung lời chứng của mình vào sự hiện diện của Đấng đến sau ông và hiện có mặt ở đây rồi. Ông không phải là Đấng Mê-si-a mà dân chúng đang mong đợi. Ông cũng không phải là Ê-li-a mà truyền thống truyền tụng rằng vị ngôn sứ này được rước lên trời và sẽ trở lại trần thế để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a. Ông cũng không phải là ngôn sứ vĩ đại mà Đức Chúa hứa với ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật: “Từ giữa anh em, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng…” (Đnl 18: 18).
      
Sau khi đã phủ nhận tất cả những nhân vật nổi tiếng mà người ta nghĩ tưởng về mình, Gioan Tẩy giả công bố sứ điệp: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Có thể ở đây ám chỉ đến niềm tin dân gian vào một đấng mê-si-a ẩn mình. Thật vậy, sách Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh hơn các sách Tin Mừng khác lời loan báo về Đấng Mê-si-a hiện ở giữa họ rồi mà họ không nhận ra.      
 
Tại sao lời chứng của Gioan Tẩy giả vừa phủ nhận về mình vừa khẳng định về Đức Ki-tô mặc lấy một tầm mức quan trọng đến như thế? Để có thể lĩnh hội được Tin Mừng Gioan, chúng ta cần phải giải mã những ẩn ý nầy. Tin Mừng Gioan vốn giàu có biểu tượng nên luôn luôn hàm chứa hai nghĩa: nghĩa trực tiếp và nghĩa ẩn dụ.      
 
Œ Nghĩa trực tiếp:      
Theo nghĩa trực tiếp, chúng ta có thể gặp thấy chìa khóa ở nơi việc dàn dựng Phần Mở Đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su thành một tuần lễ, được gọi “Tuần Lễ Khai Mạc” song đối với “Tuần Lễ Cuối Đời” của Đức Giê-su ở thành thánh Giê-ru-sa-lem. Tuần Lễ Khai Mạc được trình bày thành bảy ngày: ngày thứ hai, thứ ba và thứ tư được phân định với biểu thức thời gian “Hôm sau” (1: 29, 35, 43), riêng ba ngày sau cùng được bắt đầu với biểu thức“Ngày thứ ba” (2: 1).      

  • Ngày thứ nhất: Gioan Tẩy giả làm chứng về chính mình và về Đức Ki-tô trước những lời chất vấn của các tư tế và các thầy Lê-vi được phái đến từ Giê-ru-sa-lem (1: 19-28).      
  • Ngày thứ hai: Gioan Tẩy giả làm chứng Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” và là Đấng mà Thần Khí ngự xuống vào lúc Ngài chịu phép rửa (1: 29-34).      
  • Ngày thứ ba: ông An-rê và người môn đệ nặc danh đi theo Đức Giê-su; đoạn ông An-rê rũ em mình là Phê-rô cùng nhập bọn với mình (1: 35-42).      
  • Ngày thứ tư: Phi-líp-phê và Na-tha-na-en nhập đoàn với các môn đệ đầu tiên (1: 43-51).      
  • Ngày thứ năm và thứ sáu: hành trình về miền Ga-li-lê.
  • Ngày thứ bảy: tiệc cưới Ca-na, ở đó các môn đệ đã “chứng kiến vinh quang của Ngài” và đã “tin vào Ngài”.       

Khi trình bày Phần Mở Đầu cuộc sống công khai của Đức Giê-su như thế, thánh ký thiết lập sự song đối với bảy ngày của Công Trình Sáng Tạo, qua đó thánh ký muốn nói rằng Đức Ki-tô giáng trần để thực hiện một cuộc tạo dựng mới, hay đúng hơn, một cuộc tái tạo.      
 
 Nghĩa ẩn dụ:      
Lời chứng của Gioan tẩy giả được trích dẫn trong Tin Mừng hôm nay được định vị vào ngày thứ nhất trong Tuần Lễ Khai Mạc. Trong công trình sáng tạo thế giới, ngày thứ nhất được đánh dấu bởi việc phân tách Ánh Sáng ra khỏi bóng tối. Do đó, tất cả ‎ý nghĩa sâu xa của đoạn Tin Mừng nầy chính là Gioan Tẩy giả đến để làm chứng về ánh sáng. Trái lại, các tư tế và các thầy Lê-vi được cử đến và trở về Giê-ru-sa-lem mà không đón nhận phép rửa tỏ bày sự sám hối, vì thế, không rộng mở lòng mình ra để đón nhận ánh sáng. Tuy nhiên, họ đã được loan báo cho biết: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (động từ “biết” theo nền văn hóa Do thái không chỉ nói lên một sự hiểu biết thuần túy trên mặt trí tuệ nhưng đặc biệt còn cả trọn tấm lòng nữa). Như vậy, giáo quyền Do thái, ngay từ đầu, vẫn đắm mình trong bóng tối. Sự kiện nầy sẽ chi phối cách hành xử sau cùng của họ đối với Đức Ki tô.      
 
Việc  đối lập của cặp tương phản giữa ánh sáng và bóng tối nầy hình thành nên một trong những đề tài chủ đạo của Tin Mừng Gioan. Việc đối lập nầy đã được minh chứng rồi ngay từ trong Tựa Ngôn.
 
Lm. Ignatio Hồ Thông
CHÚA ĐẾN MANG LẠI NIỀM VUI
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
 
Người ta thường nói : đời là bể khổ hoặc đời là thung lũng nước mắt. Đối với chúng ta đời không hẳn là như thế, mà ta có thể nói : cuộc đời có rất nhiều đau khổ, đầy gian nan thử thách, và chúng ta có thể biến tất cả thành niềm vui nếu chúng ta biết đặt niềm tin vào Chúa, Đấng là nguồn vui bất tận.
 
Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi ta sống trong niềm vui chờ đợi Giáng sinh. Chúa sẽ đến cứu chúng ta, ngày giờ Chúa đến không được xác định. Trong thời gian chờ đợi có lẽ chúng ta lo âu, buồn phiền và nghĩ  rằng hy vọng của mình có thể là ảo tưởng, niềm tin của mình xem ra hão huyền.
 
Không, chúng ta hãy vững tin, đừng thất vọng. Thánh Phaolô thúc giục chúng ta :”Anh em hãy vui mừng luôn mãi”(bài đọc 2). Tuy trên bước đường chờ đợi có gặp nhiều khó khăn, nhiều gian nan thử thách, nhưng chúng ta là Kitô hữu, hãy cứ mạnh tiến, với tâm hồn tin tưởng và phấn khởi. Đức Kitô đang ở đó, vẫn âm thầm hiện diện, chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ gặp gỡ Ngài ở cuối đường. Sống trong Mùa Vọng, chúng ta hãy sống với tư tưởng này : Chúa đã gần đến, nên ta hãy trút mọi phiền sầu và hãy vui lên.
 
I.  GIOAN, ÔNG LÀ AI ?
Đã từ 400 năm, tiếng nói tiên tri đã im bặt, bây giờ với Gioan, tiếng nói ấy lại vang lên.  Qua đó một số người đã ngưỡng mộ ông Gioan Tẩy giả đến độ dành cho ông địa vị cao hơn địa vị thích đáng, còn cao hơn cả Đức Giêsu. Tiếng nói của Gioan đã vang dội và đánh động nơi nhiều người.
Cấp lãnh đạo Do thái sợ Gioan chiếm mất địa vị của mình, đã sai mấy tư tế và Lêvi đến điều tra xem Gioan là ai.  Họ sợ ông là Êlia sống lại, người đã thiêu sống hơn 500 tư tế của hoàng hậu  Giêzabel thời vua Achab. Họ sợ ông là một tiên tri, như bao tiên tri của Thiên Chúa, đến đe dọa họ, đưa những tin làm đảo lộn thời thế, làm mất quyền lợi địa vị của họ. Họ phải đề phòng, kiểm soát, canh chừng mọi bất trắc xẩy ra. Họ đã biết có nhiều người được dân coi là Đấng Cứu thế, nổi lên chống ngoại bang, làm cho bao nhiêu người phải chết lây, nhất là tầng lớp lãnh đạo tôn giáo lại càng sợ đế quốc tiêu diệt.
 
Vì vậy, cấp lãnh đạo tôn giáo sai tư tế và Lêvi đến đặt câu hỏi, yêu cầu Gioan phải trả lời cho ho biết : Ông là ai ?
 
1. Gioan là Đấng Messia ?
Tâm lý chung của các nước các dân bị trị đều mong có một vị cứu tinh nào đến giải phóng họ khỏi cảnh kìm kẹp của ngoại bang.  Dân Do thái đang sống trong tâm trạng đó. Họ tin rằng  họ là dân tuyển chọn của Giavê, họ không nghi ngờ gì về việc chẳng chóng thì chầy Thiên Chúa sẽ can thiệp để cứu dân Ngài.  Không phải chỉ có một quan niệm về Đấng Messia : có người tin rằng Đấng Messia sẽ đem lại hòa bình cho cả thế giới. Có người trông chờ Ngài sẽ cai trị đất nước bằng sự công chính. Có người trông chờ có một siêu nhân đến từ Thiên Chúa. Nhưng đa số trông mong một vị tướng lãnh vô địch sẽ cầm đầu quân đội quốc gia Do thái đi chinh phục cả thế giới.
 
Trước câu hỏi đó, Gioan hoàn toàn bác bỏ danh xưng Messia, nhưng lại tiết lộ một phần khác.  Trong tiếng Hy lạp có vẻ như Gioan muốn nói : “Tôi không phải là Đấng Messia, nhưng Đấng Messia đang có mặt ở đây mà các ông không biết”.
2. Gioan là tiên tri Êlia ?
Người Do thái tin rằng tiên tri Êlia và ông Hênốc đã được đưa về trời trên chiếc xe bằng lửa, và khi Đấng Messia giáng lâm, Êlia sẽ trở lại để loan báo trước, và chuẩn bị cho thế gian tiếp rước Ngài.  Họ tin rằng Êlia sẽ đến sắp xếp lại mọi công việc cho người Do thái : dàn xếp những bất hòa, đem lại sự đoàn kết và nối lại các gia đình.  Niềm tin rằng Êlia phải đến trước Đấng Messia bắt nguồn từ Malakia 4,5.  Người ta còn tin rằng chính Êlia xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như cho tất cả các vị vua được xức dầu. Nhưng Gioan tẩy giả đã bác bỏ mọi vinh dự đó.
 
3. Gioan là một tiên tri nào đó ?
Nhiều người Do thái tin Isaia và đặc biệt là Giêrêmia hoặc một trong các vị anh hùng cứu nước như Samuel, Maisen… sẽ có ngày trở lại.  Niềm tin đó dựa vào sách Đệ nhị luật (18,15) nói có vị tiên tri sẽ xuất hiện.  Đó là lời hứa dân Do thái không khi nào quên. Họ chờ đợi sự xuất hiện của một nhân vật sẽ là tiên tri vĩ đại nhất.  Họ hỏi Gioan có phải là một trong các vị tiên tri được hứa trong sách Đệ nhị luật không ? Một lần nữa, Gioan Tẩy giả trả lời là “không”.  Sự thực ngài cũng là tiên tri, nhưng không phải là tiên tri theo sách Đệ nhị luật nói.
 
4. Gioan là người làm chứng ?
Để trả lời cho họ, Gioan không trả lời trực tiếp : Tôi là Tiền sứ của Chúa Cưu thế vì ông khiêm tốn nhưng ông mượn lời tiên tri Isaia :”Tôi chỉ là tiếng hô trong hoang địa : hãy dọn đường cho Chúa.
 
Muốn hiểu rõ câu nói đó của Gioan Tẩy giả, ta nên nhớ rằng những con đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc đá, còn đa số là những con đường lầy lội. Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong vương quốc của mình, ông sẽ sai một người “tiền hô” tới đó trước để báo cho dân chúng lấp đầy những hố, những vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng thắn lại.  Người  “tiền hô” còn một điều nữa phải làm là dạy cho dân chúng những nghi thức tiếp tân thích hợp để đón nhà vua tới.  Gioan Tẩy giả cũng lưu ý tới thái độ tiếp tân cần phải có để đón Chúa tới. Ông nói :”Hãy ăn năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh nhận phép rửa”.
 
Tóm lại, chúng ta có thể diễn đạt toàn bộ sứ điệp của Gioan như sau :”Tôi không phải là Đấng Cứu thế, nhưng tôi là người “tiền hô” cho Ngài. Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến”. Gioan đã làm những gì mà mọi vị lãnh đạo tôn giáo đích thực phải làm. Ông không để cho người ta chú ý tới ông, mà hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Giêsu.
 
Còn một điều khác làm cho phái đoàn Do thái thắc mắc : Gioan lấy quyền gì mà làm phép rửa ? Nếu ông là Đấng Messia, là Êlia hay là một tiên tri thì ông mới có quyền làm !  Nhưng bằng một giọng thản nhiên, Gioan  nói rõ : ông là tiên tri dọn đường Chúa Cứu thế thì cố nhiên phép rửa của ông cũng chính là phép dọn đường mở lối cho phép rửa chính thức của Đấng Cứu thế.  Và ông nhấn mạnh thêm : Chúa Cứu thế đã đến rồi và hiện  nay đang ở giữa họ, thế mà họ đã không nhận ra Ngài.
 
II. KITÔ HỮU, NGƯỜI LÀ AI  ?
1. Là chứng nhân của Chúa
Kitô hữu là người được mang danh Chúa Kitô, danh hiệu này đã được thánh Phaolô lần đầu tiên gọi các tín hữu ở Antiochia. Kitô hữu là người thuộc về Chúa Kitô, được đồng hoá với Chúa Kitô đang sống giữa chúng ta.  Chúng ta không như người Do thái phải mất mấy thế kỷ  mong đợi Đấng Cứu thế đến.  Hơn nữa,  cũng không phải sống lại những biến cố đã qua. Đức Kitô đã đến. Ngài đang có đó. Liên tục hiện diện giữa chúng ta để loan báo Tin mừng cho người nghèo, để chữa lành các tâm hồn bị tan vỡ và giải thoát những kẻ bị xiềng xích.
 
Tuy Chúa Cứu thế đã đến rồi và ở giữa chúng ta,  nhưng trong thực tế , chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài không ?  Phải chăng lời khiển trách của Gioan Tẩy giả lại không nhằm đến chúng ta, cũng như những người Do thái đời ông :”Giữa các ngươi có một Đấng , mà các ngươi không biết”. Do đó, lời mời gọi khẩn thiết được trao gửi cho ta, giúp chúng ta dễ chấp nhận những nỗ lực và hy sinh cần thiết, để từ bỏ mọi kiêu căng, thoát khỏi những lố lăng trần thế, hầu nhận biết Đức Kitô.
 
Truyện: Tình nghĩa vợ chồng.
Tại một trung tâm bài phong, đa số các bệnh nhân đều buồn chán, vì cảm thấy bị bỏ rơi và bị mọi người xa lánh. Tuy nhiên, có một người vẫn còn biết cười và vẫn còn tiếp tục tạ ơn khi được giúp đỡ.  Vị nữ tu coi sóc trung tâm muốn tìm hiểu xem đâu là nguyên nhân của phép lạ này.  Sau nhiều ngày theo dõi, vị nữ tu mới khám phá rằng, xuyên qua một lỗ nhỏ trên vách tường ngăn cách trung tâm với thế giới bên ngoài, ngày ngày có một người đàn bà đến nhìn vào và mỉm cười rất trìu mến.  Đó là tất cả sức mạnh và niềm hy vọng của người đàn ông xấu số. Mỗi ngày ông chờ đợi nụ cười ấy, khuôn mặt người đàn bà khi xuất hiện, mỉm cười và biến mất.  Người đàn ông duy nhất còn biết cười nơi trung tâm bài phong đó đã giải thích cho vị nữ tu đó như sau:
“Người đàn bà ấy chính là vợ tôi ; trước khi tôi đến đây, nàng đã tìm đủ mọi cách để chữa chạy cho tôi. Mỗi ngày nàng lau chùi một khoảng nhỏ trên khuôn mặt tôi và đặt lên đó một cái hôn.  Nhưng cuối cùng nàng không thể giữ tôi lâu hơn, người ta đã đến đưa tôi vào trung tâm này, nhưng vợ tôi đã không bỏ tôi, mỗi ngày nàng đến nhìn qua vách tường và mỉm cười với tôi.  Nhờ nàng, tôi biết rằng tôi vẫn còn sống, nhờ nàng, tôi vẫn còn muốn sống”.
 
Người vợ đã làm sống lại niềm tin của chồng. Ông ta không còn thất vọng, không bi quan, không chán đời và còn muốn sống vì đã được tình thương của người vợ ấp ủ. Chính tình yêu của người vợ đối với chồng đã làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa đối với loài người.
 
Người Kitô hữu cũng là chứng nhân của Đức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, nhaThần học Teilhard de Chardin đã ví von rất sống động :”Ánh sáng xuyên qua những đám mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng đoán được có Đức Kitô”.
 
 Người vợ trong câu chuyện kể trên  phản ảnh một tấm gương sáng ngời về lòng thương người, luôn quan tâm tới người khác, sẵn sàng hy sinh cho tha nhân vì tình yêu Đức Kitô như thánh Phaolô nói :”Caritas Christi urget me” : Tình yêu Đức Kitô thúc đẩy tôi.
 
Mục sư Martin Luther King nói :”Chúng ta không làm chứng chỉ bằng lời nói, mà còn làm chứng bằng cả cuộc sống của mình”, đúng như người ta nói :
Lời nói như gió lung lay,
Gương bày như tay lôi kéo.
Có những tâm hồn dần dần được cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ.
 
J. Basquin nói :”Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta”. Ước gì nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người có thể nói như đã nói về thánh Gioan Vianney :”Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một người”.
2. Chờ  đợi ngày Chúa trở lại.
Người Kitô luôn nhớ lời Chúa hứa mà phấn khởi trong cuộc sống :”Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các conb cũng ở đó (Ga 14,3).
 
Trong suốt Mùa Vọng, Giáo hội hướng lòng chúng ta về Chúa Kitô như một điểm qui chiếu. Giáo hội hành động giống như vị “tiền hô” của Ngài.  Và cuối cùng Giáo hội giải thích cho chúng ta phải chuẩn bị đón Ngài như thế nào.
 
Mùa Vọng nói với chúng ta về việc Đức Giêsu đến. Ngài không phải chỉ đến trong dòng lịch sử như chúng ta vẫn mừng và kỷ niệm ngày lễ Giáng sinh, mà còn đến lần chót vào cuối dòng lịch sử nữa, để lúc ấy sẽ có trời mới đất mới.
 
Và việc Chúa sẽ trở lại lần thứ hai với loài người trong ngày chung thẩm, Tin mừng thánh Matthêu còn ghi rõ :”Khi con người đến với tư cách là vị Vua, Ngài sẽ ngồi trên ngai vàng của Ngài, và toàn dân thiên hạ đều qui tụ trước mặt Ngài. Lúc đó Ngài phân chia họ ra thành hai nhóm, y như người chăn tách chiên ra khỏi dê… Nhà Vua sẽ nói với những người ở bên phải : Hãy đến, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc ! Hãy đến và lãnh lấy Nước Trời làm cơ nghiệp… Rồi Ngài nói với những người ở bên trái : Hãy đi khỏi mặt Ta mà vào lửa đời đời” (Mt 25,34-41).
 
3. Chờ đợi trong niềm vui.
Đối với Kitô hữu, cuộc sống ở trần gian này là thời gian chờ đợi Chúa đến.  Chúa đến trong ngày chung thẩm và Chúa đến với ta trong ngày sau hết của đời mình. Đời là một cuộc lữ hành đi về trời.  Trong cuộc lữ hành đó có buồn vui sướng khổ xen lẫn nhau. Nhưng trong bài Thánh  thư hôm nay, thánh Phaolô khuyên tín hữu Thessalonica :”Anh em hãy vui mừng luôn  mãi”(Tx 5,16).
 
Tại sao Ngài khuyên chúng ta “hãy vui mừng luôn mãi” ? Ngài bảo chúng ta hãy vui mừng  vì chúng ta đã được Thiên Chúa cứu độ :”Linh hồn tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”. Ngoài ra, chúng ta là con cái Chúa, con cái Chúa thì phải vui luôn, vui trong lúc buồn, vui trong lúc khổ, vui trong thất bại vì tất cả nằm trong thánh ý Thiên Chúa.
 
Làm sao chúng ta mang một nét mặt buồn rầu khi chúng ta đến gần Chúa là nguồn vui, như lời thánh vịnh nói :”Tôi sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, Đấng làm cho tuổi thanh xuân tôi được vui tươi”. Chúa là nguồn vui, tại sao gần nguồn vui mà lại buồn ? Ta hãy bắt chước thánh Têrêsa Hài đồng mà chấp nhận trong vui tươi :
Vâng, con sẽ hát, con còn hát mãi
Dù trăm gai con vẫn hái hoa hồng.
Gai càng nhọn, tiếng con hát càng trong
Gai càng dài, lời ca càng thánh thót.(Têrêsa Hài đồng)
 
Truyện: kịch sĩ hài lại buồn
Người ta cho biết tại một thành phố kia có một kịch sĩ nổi tiếng vì tài nhạo cười. Ai buồn đến đâu, khó tính đến mấy nếu nghe kịch sĩ này pha trò thì thế nào cũng phải bật cười.
 
Cũng trong thành phố ấy có một nhà tâm lý nổi tiếng chữa được hầu hết mọi tâm bệnh. Ngày nọ một người đàn ông đứng tuổi, mặt mày rầu rĩ đến xin gặp nhà tâm lý.
 
Được nhà tâm lý hỏi nguyên do, ông trả lời :

  • Thưa bác sĩ, tôi là một người thiếu hạnh phúc, cuộc đời tôi quá buồn khổ. Bác sĩ có cách nào làm cho tôi vui được không ?

Nhà tâm lý hỏi :

  • Ông có quá túng thiếu về tiền bạc  không ?

Ông đáp :

  • Thú thật với bác sĩ, tôi là người khá giầu.

Nhà tâm lý hỏi tiếp :

  • Thế vợ con ông ra sao ?

Ông ta gật đầu nói :

  • Tôi có một người vợ vừa hiền vừa đẹp và mấy đứa con rất dễ  thương.

Sau khi hỏi thêm một vài điều khác, nhà tâm lý đề nghị :

  • Tôi nghĩ ông nên đến nghe kịch sĩ  nổi tiếng trong thành phố chúng ta. Thế nào ông cũng quên đi được nỗi buồn chán và tìm lại được niềm vui.
  • Thưa bác sĩ, tôi xin cám ơn lời khuyên của bác sĩ. Nhưng… Tôi lại chính là kịch sĩ đó !

 
Nghe câu chuyện có vẻ mâu thuẫn, nhưng thực tế là vậy. Một con người có biệt tài làm cho người khác dù buồn chán đến đâu cũng phải vui lên được mà chính mình lại là nạn nhân của sự buồn rầu.  Cái mâu thuẫn đó dễ hiểu vì kịch sĩ  đó ngay trong tâm hồn  không có nguồn vui thì làm sao mình cảm thấy vui được? Niềm vui đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa là chính niềm vui vĩnh cửu cho chính Ngài và từ nơi Ngài, niềm vui ấy được trao ban cho con người.
         
Chúa Giêsu chính là hiện thân niềm vui của Thiên Chúa. Từ cung lòng Chúa Cha, Ngài đến báo tin vui cho nhân loại và giải thoát con người khỏi mọi sầu khổ đau thương gây nên bởi tội lỗi và sự chết.  Ngài đã đem niềm vui đó đến với nhân trần trong đêm Giáng sinh tại Belem: Vinh danh Thiên Chúa tên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương.
 
Trong Mùa Vọng này, chúng ta hãy đến với Chúa. Gặp gỡ Chúa là đến với nguồn vui bất tận,  có niềm vui Thiên Chúa trong lòng mình, chúng ta sẽ làm cho người khác hưởng được niềm vui chân thật và bền vững.
 
Chúng ta hãy nhớ một câu trong bản nhạc rất hay của nhạc sĩ trứ danh Sebastian Bach: “Lạy Chúa Giêsu su, xin cho niềm vui của con luôn tồn tại, để niềm vui đó đem lại niềm vui cho những người khác”.
 
 Lạy Chúa, xin hãy đến: Maranatha, xin viếng thăm và ban cho chúng con niềm vui Giáng sinh bất tận.
 
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
 
HÃY VUI LÊN
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
 
Theo truyền thống dân tộc Do Thái, năm đại xá của Đức Chúa, là năm đại phúc cho người nghèo, cho người bị tù đầy. Năm đó, có nợ ai bao nhiêu, cũng được xóa; có đang bị ở tù, cũng được trả tự do. Đức Giêsu là Đấng đến để công bố năm toàn xá cho toàn thể nhân loại. Vì thế, hãy vui lên, hỡi nhân trần.
 
Tin Mừng Cho Người Nghèo
Con người sống trên trần gian này cảm nghiệm bao nhiêu nỗi khổ: nỗi khổ vật chất và tinh thần. Ai càng coi trọng tiền bạc và vật chất, càng cảm thấy khổ nhiều. Tuy nhiên, đôi khi người nghèo không cảm thấy khổ, mà những người đặt nặng giá trị vật chất lại cho rằng họ khổ.
 
Người nghèo cũng có niềm vui riêng của họ, trời xanh, khí mát trong lành, đất trời đẹp tuyệt vời và vô tận. Tuy vậy, nếu người nghèo không thanh thoát vượt lên được cái bình thường, thì cái nghèo, và đặc biệt là tình trạng bần cùng, ảnh hưởng thê thảm trên con người. Nàng Kiều bán mình chuộc cha cung là một thí dụ. Và từ cái khổ này dẫn tới cái khổ khác; đến độ người ta thấy “đời là bể khổ.” Nghèo, tù, tội, là những điều gây cho bao người đau khổ dằn vặt.
 
Hôm nay, tin mừng đã được công bố: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Đức Chúa đã xức dầu cho tôi. Ngài sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn tan vỡ, loan báo ơn giải thoát cho những kẻ bị bắt, tự do cho kẻ tù đày, và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.” Chính Thiên Chúa giải phóng con người, cho con người tìm được sự giải phóng, tự do, niềm vui và hạnh phúc.
 
Đấng Đến Sau Tôi
Cái nghèo vẫn còn tiếp tục. Cái nghèo như gắn chặt với cuộc đời của một số người như hình với bóng. Con người vẫn khổ, vẫn miệt mài đi tìm miếng cơm manh áo. Những người đã có miếng cơm áo thì lại muốn có nhiều hơn nữa. Con người vẫn không thoát khỏi cảnh khổ. Nỗi khổ do nghèo vật chất dường như giúp con người thấy nỗi khổ của nghèo tinh thần. Dường như khổ vật chất không làm con người khổ, mà nghèo tinh thần làm con người khổ.
 
Gioan Tẩy Giả sống đơn sơ trong cảnh nghèo. Ngài như một lời chứng cho nỗi khổ vì nghèo tinh thần, vì không thấy được ánh sáng sự thật, chứ không phải vì nghèo vật chất. Hơn nữa, Gioan Tẩy Giả còn làm chứng cho một Đấng khác nữa: “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng Đấng đó sẽ làm phép rửa cho anh em với Thánh Thần và lửa.” Đấng đó là Đấng mà mọi người phải mong chờ, cho dù lúc đó người ta và cả Gioan Tẩy Giả cũng chưa biết người đó là ai.
 
Đức Giêsu như tất cả mọi người đã sống cái nghèo đến tận cùng: sinh trong hang chiên cừu, ăn uống mặc như người nghèo, làm nghề của những người nghèo, ngay cả khi đi rao giảng vẫn nghèo, có lúc đi tìm trái vả ăn cho đỡ đói cũng không có (Mt.21, 18-19). Tuy vậy, Đức Giêsu là người làm trọn lời tiên tri trong sách Isaia, Ngài công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Ngài tới để làm cho người mù được thấy, người tù được trả tự do, băng bó những tâm hồn tan vỡ. Đức Giêsu mang lại cho người ta thấu hiểu sự thật, và sự thật sẽ giải phóng con người khỏi mọi phiền não, tù tội ràng buộc tinh thần. Ngài giúp con người vươn lên, vươn lên tới Thiên Chúa là đỉnh bình an hạnh phúc. Hãy vui lên vì với Đức Giêsu, chúng ta biết con đường giải thoát và hạnh phúc đích thực.
 
Hãy Vui Mọi Lúc
Như một người đã được giải phóng, thánh Phaolô viết cho dân thành Thessalônica: “hãy vui hạnh phúc mọi lúc.” Một người rao giảng tin mừng Đức Giêsu phục sinh, luôn bị phản đối, rượt đuổi và bắt bớ, mà khuyên người ta hãy sống vui và hạnh phúc được sao? Nếu đúng, người đó phải sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.
 
Tại sao Phaolô lại được như vậy? Vì Ngài đã đạt đạo, đã chọn Thiên Chúa trên hết, đã chấp nhận Đức Giêsu như lý tưởng và Chúa của mình. Ngài đã thấy được trần gian chóng qua, chỉ có thực tại bền vững là chính Thiên Chúa, và cũng là bình an và hạnh phúc của Ngài. Với quan niệm sống và chọn lựa như vậy, Ngài sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.
Chỉ khi nào con người chọn Thiên Chúa trên hết, phó thác tất cả cho Thiên Chúa, thì con người mới sống chấp nhận thực tại và thanh thản trước mọi biến cố và nghịch cảnh. Thiên Chúa đang thực hiện việc giải phóng con người qua Đức Giêsu, qua việc cho con người thấy cách sống giúp con người bình an hạnh phúc. Cách sống đó chính là cách sống của Đức Giêsu. Đức Giêsu cũng không được miễn trừ khỏi bao cám dỗ, nhưng Ngài đã vượt qua và vẫn trông cậy vào Thiên Chúa ngay cả khi không thấy dấu chỉ cho thấy như vậy. Biến cố Đức Giêsu kêu trời “lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” là một bằng chứng. Ngay cả như vậy, chúng ta tin rằng, Ngài vẫn bình an và phó thác.
 
Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  • “Hãy bình an hạnh phúc mọi lúc.” Liệu điều này có thể xảy ra không?
  • Làm sao để có thể bình an hạnh phúc trong mọi nơi mọi lúc?
  • Bạn có thể gặp được Đức Yêsu không? Xin đưa lý lẽ cho câu trả lời của bạn?

 
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
 
ANH EM HÃY VUI LÊN
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Bước vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta : “Hãy tỉnh thức” (Mt 24, 44). Sang Chúa nhật thứ II, tiếng hô lớn của Gioan Tẩy Giả vọng vang : “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Is 40, 3).  Chúa nhật thứ III hôm nay, Phụng vụ Giáo hội đang màu tím chuyển sang hồng như Chúa nhật IV Mùa Chay, nhằm đánh dấu một giai đoạn sám hối, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), nên Giáo hội mời gọi con cái mình “Gaudete – Hãy vui lên”.
 
Vui lên “Gaudete” là chủ đề của Chúa nhật này. Vui lên như Isaia:“Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi” (Is 61, 10). Lời nguyện nhập lễ hôm nay đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” (Lời nguyện nhập lễ Cn III Mùa Vọng).
 
Với những lời trên làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, dẫn chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ. Làm sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa” (Is 61, 1-2). Và làm sao không thể không mừng “vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc, Chúa cũng làm phát sinh công chính và lời ca tụng trước mặt muôn dân” (Is 61, 10-11).
 
Đọc Trang Tin Mừng (Ga 1, 6-8. 19-28), chúng ta bắt gặp một nhân vật có vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị mừng Chúa Giêsu giáng sinh đến với nhân loại là  Gioan Tẩy Giả. Ngài xuất hiện trong tư cách là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Chúng ta đang vui sẵn, sự xuất hiện của ngài làm cho chúng ta vui thêm, vì lời hứa được thành hiện thực.
 
Gioan rút lui vào hoang địa để sống một cuộc sống rất khổ hạnh, và qua cuộc sống của mình, ông mời gọi dân chúng hoán cải; ông làm phép rửa trong nước, một nghi thức thống hối đặc biệt, khác với nhiều nghi thức thanh tẩy bên ngoài của các giáo phái thời đó, khiến những người Do thái từ Giêrusalem phải sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi xem: “Ông là ai?” Chúng ta phải cám ơn họ, vì nhờ họ mà chúng ta biết được Gioan là ai?
 
Câu trả lời của thánh nhân thật là khiêm tốn lạ thường, ông không phải là Ðức Messia, không phải là ánh sáng. Không phải là Elia trở lại trái đất, cũng không phải là một vị đại ngôn sứ đang được chờ đợi. Ông là vị tiền hô, một chứng nhân, hoàn toàn tùng phục Ðấng mà ông rao giảng, ông là một tiếng kêu trong hoang địa.
 
Thế giới cần tiếng kêu của chúng ta : Chúng ta đang sống trong một thế giới, thu hẹp hơn là một đất nước với chủ nghĩa vô thần, phủ nhận Thiên Chúa, sống như thể không có Thiên Chúa, và chúng ta cũng cảm thấy vắng bóng Thiên Chúa. Người kitô hữu có bổn phận phải cất lên những tiếng kêu vang vọng khắp bốn phương trời rằng : “Có Thiên Chúa hiện hữu, Chúa luôn ở gần kề, cả khi Thiên Chúa có vẻ vắng bóng“.
  
Gioan là một tiếng kêu trong hoang địa, là một chứng nhân của ánh sáng. Ðó chính là sứ mạng của Mùa Vọng: tức là trở thành những chứng nhân của Ánh Sáng và chúng ta chỉ có thể là chứng nhân như vậy nếu chúng ta mang ánh sáng trong mình, nếu chúng ta không những xác tín là có ánh sáng, nhưng cả chúng ta cũng thấy một chút ánh sáng. Và trong Giáo Hội, trong Lời Chúa, chúng ta cử hành các bí tích, trong bí tích giải tội, với sự tha thứ mà chúng ta nhận lãnh, trong việc cử hành Thánh Lễ qua đó Chúa hiến mình trong tay và trong tâm hồn chúng ta, chúng ta chạm đến ánh sáng và nhận lãnh sứ mạng này là trở thành những chứng nhân, chứng tỏ có ánh sáng và mang ánh sáng vào trong thời đại chúng ta”.
 
Trong mùa vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa chúng ta và chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô cũng đã quả quyết, do kinh nghiệm của ngài: “Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình” (Le Confessioni, III, 6,11).
 
Chúng ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Ðức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Ðấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.
 
 
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
 
 
 
 
 
 
THIÊN CHÚA ẨN MÌNH ĐANG CHỜ CHÚNG TA
UBKT. HĐGM VIỆTNAM
 
Ngày kia, người cha thấy đứa con gái nhỏ khóc nức nở về nhà. Ôm con vào lòng, người cha hỏi:

  • “Sao con khóc, có ai bắt nạt con không ?”

Cô bé nấc trong vòng tay cha hồi lâu, dịu lòng đôi chút, nó nói giữa tiếng nấc nghẹn :

  • “Tụi nó bỏ con !”

Người cha hỏi: “Ai bỏ con, sao tụi nó lại bỏ con ?”

  • “Các bạn rủ con chơi trốn tìm rồi các bạn bỏ con đi đâu mất tiêu!”

Thì ra cô bé trốn kỹ quá các bạn không thể tìm thấy. Cuộc chơi đã kết thúc từ lâu mà cô bé không biết. Khi ra khỏi chỗ trốn thì chẳng còn bạn nào, bé tủi buồn khóc nức nở.
 
Lời của thánh Gioan: “… có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.” (Ga 1, 26b) cho chúng ta nghĩ về một Thiên Chúa ẩn mình. Con người không nhận ra Thiên Chúa có thể vì Thiên Chúa ẩn mình quá kỹ hoặc có thể vì nhiều vật cản che khuất tầm nhìn giới hạn của con người.
 
Thiên Chúa thích ẩn mình
Ngài ẩn mặt vì Ngài tôn trọng tự do của con người. Con người sống bất công, Ngài không vội phạt, Ngài chờ ; con người sống ngay lành, Ngài không lộ liễu tưởng thưởng ngay, Ngài luyện lòng yêu mến cho con người ; con người cầu khấn, Ngài như không nghe để con người tập đức cậy trông ; con người xúc phạm đến Ngài, Ngài im lặng kiên nhẫn vì Ngài không muốn mất con người…
 
Do vậy, con người có cảm giác Thiên Chúa không hiện diện. Vì khó cảm nghiệm niềm vui linh thánh và không dễ nhận ra ơn huệ thiêng liêng nên con người bị cám dỗ đi tìm niềm vui trần thế dễ nhìn và tìm phúc lộc cụ thể dễ thấy. Con người vốn cần có Thiên Chúa để hiện hữu và tồn tại như các sinh vật cần đến không khí; vốn cần có Chúa để thăng tiến phát triển như cây cỏ cần ánh sáng mặt trời. Tuy thế, sống trong tình trạng hưởng ân huệ thường xuyên dễ làm cho ta quên Đấng ban ân huệ. Con người luôn cần đến Thiên Chúa nhưng lại hay quên Thiên Chúa. Sự quên lãng và mù tối đó chính là mối nguy cho con người. Nó là tiền đề cho sự chối bỏ Thiên Chúa, gạt Chúa ra khỏi cuộc sống và dẫn đến tình trạng nghèo nàn và tiêu diệt mình.
 
Đức Kitô, bảng chỉ đường về nhà Cha
Thiên Chúa không muốn để con người sống trong u tối. Sau tội Adam-Evà, cửa Thiên Đàng đã khép, con người như mù lòa không nhận ra đường về nhà Cha. Hình ảnh chiều chiều Adam được Chúa hiện ra đàm đạo trong vườn địa đàng đã lui vào dĩ vãng (x. St 3, 8; 24). Tuy thế, Thiên Chúa là tình yêu không thể bỏ con người dù họ quay lưng lại với Ngài. Lúc con người bỏ Chúa mà đi cũng là lúc Thiên Chúa lên đường đi tìm con người. Mầu nhiệm Nhập Thể chính là mầu nhiệm Thiên Chúa chạy theo con người. Đức Kitô là con đường sáng để ta lại nhìn thấy Thiên Chúa. Ngài là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống để ta biết lối về nhà Cha, biết minh định đâu là thật là giả và để lại nhận được ân huệ phục sinh.
 
Đức Kitô là Đấng được Chúa Cha sai đến với con người để đưa con người đang nghèo tình yêu được nên giàu có ; đang đổ vỡ tình nghĩa với Chúa và với nhau được hàn gắn lại, đang bị tội lỗi trói buộc được tự do. Tấm lòng của Thiên Chúa quá bao la. Quyền phép Chúa thật toàn năng. Chúa đã nhờ Đức Kitô như bảng chỉ đường cho ta biết lối về nhà Cha.
Kitô hữu là bảng chỉ đường dẫn đến Đức Kitô.
 
Vai trò này được thánh Gioan Baotixita thể hiện xuất sắc với tư cách vị tiền hô cho Đức Kitô. Đến phiên chúng ta, Đức Kitô lại nhờ chúng ta, sau khi đã biết và trở về với Chúa, hãy trở nên bảng chỉ đường cho anh em đến với Ngài.
 
Trung thành với đời sống khổ hạnh được an bài, bằng lời kêu gọi sám hối : “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa : Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (Ga 1, 23), Gioan đã trở nên ngọn đèn soi lối cho mọi người đến và đón nhận Đức Kitô. Gioan là đầy tớ cho Đức Kitô là chủ, là âm thanh vang lên cho mọi người hiểu được nội dung của Lời. Gioan tuyệt đối không bao giờ che lấp Chúa. Bằng thái độ thẳng thắn, khiêm tốn, thánh nhân không bao giờ để cho người khác ngộ nhận về mình : “Tôi không phải là Đấng Kitô… Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Nơi khác, ngài nói thêm : “Có Người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi vì có trước tôi”. Ngài tỏ ra vui khi Đức Giêsu được nể trọng như phụ rể mừng khi tân lang được vinh vang : “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3, 30). Bảng chỉ đường phải được đặt bên vệ đường, bảng chỉ đường mà đứng giữa đường cản lối đi thì chỉ đáng phá bỏ.
 
Thánh Gioan Maria Vianney được sai đi làm cha sở xứ Ars, một nơi nổi tiếng hai điều: một là nhà nhà khô khan việc đạo, hai là người người đều biết khiêu vũ! Ngày cha sở về chẳng ai thèm đón. Phương tiện về nhận xứ là một chiếc xe bò chở vài chiếc vali áo lễ, đồ lễ, sách vở và ít vật dụng cá nhân. Tới một ngã ba, phân vân không biết đi đường nào, cha Gioan gọi một em bé lại và hỏi: “Con làm ơn cho cha hỏi: Nhà thờ xứ Ars đi lối nào?” Em bé ngạc nhiên trố mắt nhìn. Cha nói tiếp: “Con chỉ cho cha đường đến nhà thờ rồi cha sẽ chỉ cho con đường lên thiên đàng!” Quả thế, cha Gioan Maria Vianney đã tận tụy 40 năm tại xứ Ars để chỉ cho biết bao người biết con đường về với Chúa bằng đời sống khổ hạnh, cầu nguyện, giải tội, khuyên bảo không ngơi nghỉ. Ngài đã trở nên bảng chỉ đường cho mọi người đến được với Đức Kitô.
 
Mọi kitô hữu cũng phải trở nên bảng chỉ đường về Đức Kitô bằng đời sống cầu nguyện và bác ái mẫu mực. Ước mong người ta thấy được Chúa nơi người kitô hữu như cụ già nhân chứng nơi tòa án phong thánh cho cha Gioan Maria Vianney đã nói: “Tôi đã thấy Thiên Chúa nơi một con người”.
 
Thiên Chúa ẩn mình đang đợi chúng ta phát hiện và chỉ cho anh em, đó là sứ mạng của mỗi kitô hữu.
 
UBKT. HĐGM VIỆTNAM
 
NIỀM VUI SỐNG ĐẠO
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
 
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều chung một ý tưởng chính là diễn tả niềm vui của những ai tin vào Chúa. Niềm vui ấy lan tỏa trọn vẹn cuộc sống con người, đồng thời là động lực và sức mạnh giúp cho họ vươn lên giữa bao sóng gió của cuộc sống trần gian. Thật là sai lầm khi chỉ trình bày Chúa Giêsu trên thập giá mà không hướng tới ngày Người Phục sinh. Quả là thiếu sót khi chỉ nghĩ đến Hài nhi Giêsu như một con người mà quên rằng Người chính là Thiên Chúa nhập thể. Như thế, màu tím của lễ phục Mùa Vọng không phải là màu của tang tóc u buồn, nhưng là màu của hy vọng cậy trông. Những bài Thánh ca của Mùa Vọng không phải là những tiếng rên rỉ não nề, nhưng là những ước vọng hướng về tương lai. Tương lai ấy đã được thực hiện ngày hôm nay, giữa chúng ta. Bởi lẽ Thiên Chúa đã làm người và ở với chúng ta. Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” công bố ngày 24-11-2013, đã mời gọi các tín hữu tái khám phá ra niềm vui mà đức tin vào Thiên Chúa đem lại cho mình.
 
Ơn gọi của người tín hữu trước hết đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc vì cóChúa hiện diện trong đời. Hãy đọc lại bài ca của Đức Maria được chọn làm bài Đáp ca của Phụng vụ hôm nay để cùng với Đức Mẹ cảm nghiệm sự hiện diện kỳ diệu của Chúa và tình thương Ngài dành cho mỗi người. Thiên Chúa ở gần chúng ta mọi nơi mọi lúc. Ngài luôn lắng nghe những tâm tư, đáp trả mọi ước nguyện, đỡ nâng những yếu đuối, khiển trách những lỗi lầm. Nhiều tín hữu không ý thức được niềm vui cao cả này, nên đã sống như thể  không có Chúa, bất chấp tiếng nói của lương tâm và quy luật của đạo lý làm người. Khi xác tín Chúa hiện diện trong đời, chúng ta không còn dám dối trá. Khi chắc chắn rằng Chúa biết mọi sự, chúng ta sẽ cố gắng để sống ngay thẳng và chân thành hơn.
 
Ơn gọi của người tín hữu đem lại cho chúng ta niềm vui vì chúng ta được trở nên con Thiên Chúa. Sự giáng sinh của Đức Giêsu là niềm vui cho cả nhân loại, đồng thời đem lại cho cuộc sống con người một ý nghĩa mới: họ không chỉ là những hạt bụi hóa kiếp làm người, nhưng là những nghĩa tử của Thiên Chúa. Họ cũng được kêu gọi cố gắng mỗi ngày để nên thánh, giống như Thiên Chúa là Đấng Thánh Thiện. Tước hiệu “con Thiên Chúa” thực sự chỉ được dành cho Ngôi Hai. Nhưng nhờ việc Ngôi Hai nhập thể mang lấy thân phận con người mà chúng ta, những con người yếu đuổi mỏng giòn, được mang lấy tước hiệu cao cả ấy. Chính khi đón tiếp Ngôi Lời nhập thể mà chúng ta được trở nên con Thiên Chúa (x. Ga 1,12). Ý thức mình là con Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta sống thân tình với Ngài, như con cái đối với cha mẹ mình. Kinh Lạy Cha mà chúng ta đọc mỗi ngày nhắc cho chúng ta vinh dự cao cả này.
 
Ơn gọi của người tín hữu đem lại cho chúng ta niềm vui vì chúng ta có mọi người là anh chị em với nhau và là con của cùng một Cha trên trời. Tình huynh đệ mà chúng ta được kêu gọi thực hiện không chỉ dựa trên mối liên hệ sắc tộc, đồng bào, nhưng dựa trên nền tảng là chính Thiên Chúa. Ý thức mọi người là anh chị em sẽ giúp chúng ta sống thân thiện và nhân ái với nhau hơn. Những xung đột, bạo lực, tội ác đang diễn ra hằng ngày đều có nguyên nhân là thiếu ý thức về tình huynh đệ dựa trên nền tảng đức tin.
 
Ơn gọi của người tín hữu đem lại cho chúng ta niềm phấn khởi vì biết rằng mìnhđược Chúa tin tưởng sai đi vào lòng cuộc đời để gieo mầm tin yêu. “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân”(Bài đọc I). Vâng, chính Chúa sai chúng ta vào lòng cuộc đời để góp phần Phúc Âm hóa xã hội.
 
Một lần nữa, trong Chúa nhật thứ ba của Mùa Vọng này, Lời Chúa lại nhắc đến nhân vật Gioan Tẩy giả với lời mời gọi khiêm nhường sám hối. Lời mời gọi của Gioan tẩy giả cũng đang được nhắn gửi đến với mỗi người chúng ta, nhờ đó chúng ta được hưởng niềm vui trọn vẹn. Nhân vật Gioan Tẩy giả cũng nhắc nhớ chúng ta, mỗi người hãy ra đi loan báo niềm vui mà mình đã cảm nhận khi thực hành chân lý đức tin. Biết bao người quanh ta chưa được một lần nghe nói về Chúa. Họ đang ao ước được gặp gỡ Ngài. Các tín hữu được sai lên đường đến với họ, mang cho họ tình thương, niềm vui, sự tha thứ, sự đỡ nâng và giải thoát. Niềm vui Giáng Sinh phải được loan báo cho mọi người, vì đó là niềm vui cho cả toàn dân. Chân lý cứu độ phải được trình bày cho thế giới, vì Thiên Chúa muốn cứu vớt muôn loài. Chúng ta không chỉ giữ niềm vui Giáng Sinh cho riêng mình, nhưng mỗi tín hữu phải là người tiếp nối sứ mạng đem tin vui ấy cho những người xung quanh. Lễ Giáng Sinh chỉ có ý nghĩa và mang lại hiệu quả thiêng liêng, nếu mỗi chúng ta biết sống và loan báo sứ điệp hân hoan vui mừng ấy.
 
Giáng sinh về mỗi năm, nhưng chưa chắc chúng ta đã thực sự đón Chúa trong cuộc đời. Mỗi mùa vọng đến đều đặn, nhưng chưa hẳn tâm hồn chúng ta đã được canh tân. Bởi lẽ đón Chúa đến không phải chỉ là những ánh đèn rực rỡ lung linh, những tà áo sặc sỡ muôn màu. Đón Chúa đến đòi hỏi chúng ta phải có một tấm lòng ngay thẳng và chân thành. Khi thực sự thành tâm đón Chúa, hoa sẽ nở trong sa mạc, niềm vui sẽ tràn ngập cuộc đời, tình thương sẽ ngự trị, công chính sẽ lên ngôi.
 
 
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
 
 
 
 
 
CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG
JM, Lâm Thy,ĐVD
 
Bài Tin Mừng hôm nay (CN III/MV-B – Ga 1, 6-8.19-28) trình thuật: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” (Ga 1, 6-8). Mới thoạt nghe Tin Mừng, tự nhiên nảy sinh thắc mắc: Bình thường khi một người làm chứng thì chỉ có thể làm chứng về một sự việc có thật xảy ra (trong đó người hay vật chứng phải là người thật, vật thật). Ánh sáng không phải là một vật thể, lại càng không phải là một người thật, mà chỉ là sự phát sáng từ một vật thể khác, vậy thì làm sao để có thể “làm chứng về ánh sáng”? Vấn đề cần phải được hiểu như thế nào?
 
Lời Chúa được các thánh sử trình thuật đều nằm trong giới hạn của “nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng” (nghĩa đen và nghĩa bóng), mà Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini” (số 27) đã giải thích: “Về phương diện này, người ta có thể nhắc tới 2 câu thơ trung cổ diễn tả mối tương quan giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh: “Littera gesta docet, quid credas allegoria, Moralis quid agas, quo tendas anagogia” (Chữ đen nói tới việc làm; ẩn dụ nói về đức tin; Luân lý nói tới hành động; loại suy nói về số phận ta)”. Như vậy là thánh sử Gio-an đã dùng từ “ánh sáng” theo nghĩa “ẩn dụ” – nghĩa thiêng liêng – để chỉ về Đức Giê-su Ngôi Lời nhập thể. Ngay từ Lời mở đầu trong sách Tin Mừng, thánh nhân đã viết: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.” (Ga 1, 1-5). Ấy là chưa kể chính Đức Giê-su cũng phán dạy: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối. Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian.” (Ga 12, 46-47).
 
Rõ ràng thánh sử Gio-an đã giới thiệu thánh Gio-an Tẩy Giả là người “làm chứng về ánh sáng” với ngụ ý là một “chứng nhân của chân lý Cứu Độ”. Mà chân lý Cứu Độ là “điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.” (1Ga 1, 1). Lời Sự Sống ấy chính là Đức Giê-su Ki-tô mà ở phần kết luận sách Tin Mừng, thánh sử đã xác quyết: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21, 24-25). Cuối cùng, khi viết “Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” thì thánh sử Gio-an lại là một nhân chứng của “người làm chứng về ánh sáng”.
 
Không những thế, Người được làm chứng (là Đức Giê-su Ki-tô) cũng làm chứng về nhân chứng độc đáo ấy: “tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến. Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả.” (Mt 11, 9-11); “Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ. Ông Gio-an là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian.” (Ga 5, 34-35). Quả thực, không còn một lời chứng nào sáng tỏ và thuyết phục hơn về CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG: GIO-AN BAO-TI-XI-TA.
 
Người làm chứng phải là người có kinh nghiệm thật sự về điều mình làm chứng: hoặc thấy tận mắt sự việc, hoặc cảm nghiệm được sự việc cách thấu đáo. Người làm chứng (chủ thể) chỉ có thể làm chứng về một người khác (khách thể), chớ không ai lại làm chứng về bản thân mình. Chính Đức Giê-su đã giải thích rõ ràng: “Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. Có Đấng khác làm chứng về tôi, và tôi biết: lời người làm chứng về tôi là lời chứng thật. Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật.” (Ga 5, 31-33). Tuy được chính Đấng Ki-tô làm chứng về mình, nhưng khi bị một số Tư-tế và thầy Lê-si vặn hỏi, thánh Gio-an Tẩy Giả vẫn một mực khẳng định ngài “không phải là Đấng Ki-tô, không phải là Ê-li-a, không phải là ngôn sứ”, mà chỉ khỉêm nhường tự nhận “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (Ga 1, 19-23).
 
Đức tính tuyệt đối khiêm nhường cộng với những hành vi công minh chính trực đã khiến thánh Gio-an Tiền Hô từ một người “làm chứng về ánh sáng” lại trở nên “ngọn đèn cháy sáng” (Ga 5, 35) đã toả ra các làn ánh sáng sau đây:
] Ánh sáng của sự tự nguyện sống khổ hạnh, hãm mình ép xác. Thánh Kinh đã ghi nhận: “Cậu bé Gio-an càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân It-ra-en.” (Lc 1, 80). Hoang địa là sa mạc hoang vu, cô tịch, đầy thú dữ, thời tiết lại khắc nghiệt (ngày thì nắng cháy da, đêm thì lạnh cóng ruột). Ngay từ nhỏ, Thánh nhân đã chấp nhận sống trong hoang địa với cách ăn mặc đơn sơ, đạm bạc (“Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng” – Mc 1, 4-6), chứng tỏ ngài đã chấp nhận sống khổ hạnh để theo đuổi lý tưởng “làm chứng cho chân lý”. Vì thế, tự nơi ngài đã tỏa sáng tinh thần “làm tôi Thiên Chúa hơn là làm tôi của cải vật chất”.
 
] Ánh sáng của sự công minh chính trực, sẵn sàng hy sinh “cái tôi” cho chân lý: Đức tính cương trực của thánh Gio-an Tẩy Giả đã bộc lộ ngay khi ngài bắt đầu rao giảng Tin Mừng, làm Phép Rửa cho dân chúng tại sông Gio-đan: “Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? (Mt 3, 7). Phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc là những phe phái quyền lực trong Do-thái giáo thời đó, vậy mà Thánh nhân cũng không chút e ngại khi nói họ là “nòi rắn độc”. Đến như vua Do-thái là Hê-rô-đê đã lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh là Phi-líp-phê, thánh nhân cũng nói thẳng: “Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!” (Mt 14, 3-12), và vì thế mới bị Hê-rô-đê trảm quyết.
 
] Nhưng bao trùm lên tất cả là: Ánh sáng của sự khiêm nhu tự hạ, quên mình trong phục vụ chân lý: Thánh Gio-an Tẩy Giả đã không dám nhận mình là Đấng Ki-tô, là ngôn sứ, mà khẳng định: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (Ga 1, 23). Không những thế, ngài còn nói về Đấng mà ngài làm chứng: “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây dép cho Người” (Ga 1, 27); “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi.” (Ga 3, 30). Chính đức tính khiêm nhường, quên mình đi để thi hảnh sứ vụ “rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” đã khiến cho “Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan.” (Mc 1, 4-5).
 
Tất cả những ưu điểm nổi bật nêu trên phải chăng là ân sủng của Thiên Chúa đã ban cho thánh Gio-an Tẩy Giả? Đúng là như vậy, bởi vì ngay từ khi được hình thành trong cung lòng bà Ê-li-da-bet, thiên sứ đã truyền cho ông Da-ca-ri-a đặt tên cho thánh nhân là Gio-an (Gioan hay Giokhanan tiếng Do-thái có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”). Quả thực thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta đã được Thiên Chúa đoái thương, tiền định từ trước, nên ngài là một chứng nhân tuyệt hảo. Thánh nhân đã tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên; đã ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng; đã tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi dọn đường, sửa lối tâm linh con người để mừng đón Ánh Sáng Chúa Ki-tô. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.
 
Chúa nhật III/MV Giáo Hội cho phép các chủ tế trong Thánh lễ được dùng lễ phục màu hồng và kêu gọi tín hữu “hãy vui lên” vì ngày Chúa quang lâm đã cận kề. Ấy cũng bởi vì chính “người làm chứng về ánh sáng” đã khẳng định: “Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi.” (Ga 3, 30). Người Ki-tô hữu ngày hôm nay hãy vui mừng, vì không chỉ có “người làm chứng về ánh sáng” là “ngọn đèn cháy sáng”, mà chính mình cũng được Ngôi Lời phán dạy “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 14). Hãy học theo thánh Gio-an Tiền Hô chiếu tỏa ánh sáng “khổ hạnh, trung thực, quên mình và nhất là khiêm nhường chịu lụy” của bản thân ra môi trường xung quanh (từ gia đình lan tỏa ra cộng đoàn xã hội), ngõ hầu dọn đường đón Chúa quang lâm. Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Ðấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN III/MV).
 
JM, Lâm Thy,ĐVD
 
CHỨNG NHÂN TRUNG THỰC
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
 
Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề tài khá đa dạng, hướng đến những giá trị tư tưởng khác nhau. Gần như hầu hết các họa sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật Công giáo, từ Leonardo da Vinci, Titian, Caravaggio đến Rubens…đều tìm thấy trong cuộc đời của ông một chi tiết nào đó làm nguồn cảm hứng sáng tác cho mình. Riêng Caravaggio, đã vẽ đến hàng chục tác phẩm về Gioan Tẩy Giả…
 
Không chỉ nhiều, Gioan Tẩy Giả có lẽ cũng là vị Thánh đi vào hội họa sớm nhất. Icon thể hiện hình ảnh Thánh lâu đời nhất được tìm thấy, là icon về Gioan Tẩy Giả, được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, có nguồn gốc Palestine.
 
Bức tranh đã bị hư hại nhiều, không thể nhận biết hai hàng chữ viết hai bên chuyển tải thông điệp gì. Ở trên cùng, dễ nhận biết, bên trái, là hình ảnh Chúa Giêsu, và bên phải, là hình ảnh Đức Mẹ Maria.
Giữa vô số tranh vẽ Thánh Gioan Tẩy Giả, chiếm số lượng nhiều nhất, và có nhiều tác phẩm xuất sắc nhất, là ở mảng chủ đề: “Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết”.
 
Đây là icon thể hiện chủ đề “Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết” được cho là lâu đời nhất được vẽ vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, thuộc truyền thống Byzantium:

  • Đứng chính giữa, là Thánh Gioan Tẩy Giả. Ông đang nói: “Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng”.
  • Phía sau là dòng sông, nơi ông thực hiện phép Rửa cho Chúa Giêsu.
  • Bên trái, là đầu của ông, đã bị chặt lìa, nhưng vẫn như đang hướng nhìn về phía chúng ta.
  • Bên phải: ở dưới là con chiên tượng trưng cho Dân Chúa như đang suy ngẫm về những gì Thánh Gioan Tẩy Giả nói trong sự tôn kính, và bên trên là cây tượng trưng cho sự sống.

Bức tranh như vậy, theo một số học giả, là sự khái quát trọn vẹn cuộc đời và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy Giả: “là nhà tiên tri cuối cùng, là người dọn đường cho sự ra đời của Chúa”. (Nguyên Hưng).
 
1. Chứng nhân ánh sáng trung thực
Khởi đầu Phúc Âm, Thánh Gioan viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).Thánh Gioan là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng của sự trung thực.
 
Chúa Giêsu nói về Gioan: “Ðây còn hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11, 9). Và Chúa còn nói thêm: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11). Nhưng so với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi “không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.
 
Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Ðấng Cứu Thế không? Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.
 
Trung thực với lòng mình, nên Gioan sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái Pharisiêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo nặng lời. Gioan gọi họ là loài “rắn độc” (Mt 3,7). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh thiện (Mc 6,20). Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.
 
Thánh Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng trung thực nên ngài đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.
 
2. Thánh Gioan sống rất đẹp
Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.
 
Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.
 
Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được đám đông, được dân chúng ngưỡng mộ, họ xem ngài như một tiên tri cao cả, nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.
 
Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3,30)
 
3. Thánh Gioan chết cũng rất đẹp, rất hào hùng.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn, dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước thương dân.
 
Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp và hào hùng vô cùng.
 
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.
 
Người theo Ðạo Hồi giáo Islam sùng kính Thánh Gioan Tiền Hô ở giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Thánh Gioan Phaolô II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.
 
4. Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân trung thực
Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.
 
Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam lại ngao ngán trước những tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian dối đầy dẫy trong xã hội như ngày hôm nay. Người dân phải chấp nhận sống chung với gian dối, tiêu cực, tệ nạn như người miền Tây, miền Trung được khuyên tập sống chung với lũ vậy.Ông Trần Quốc Thuận, văn phòng Quốc Hội Việt Nam tuyên bố: “Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lập lại nhiều lần thành ‘đạo đức’, mà cái ‘đạo đức’ đó là mất đạo đức.”. Gian dối trở thành tập quán xã hội, một bản tính thứ hai, một nền “đạo đức” của con người, như vậy thì tương lai của dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu?
 
Giáo sư Hoàng Tụy nhận định: Sự giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng, đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc… Trung thực thế nào được khi mà người ta hàng ngày phải sống trong một môi trường giả dối mà minh chứng rõ nhất là tiền lương công chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi ai cũng sống đàng hoàng, dư giả. (x.Báo Khuyến học & Dân trí, Thứ sáu, 28/11/2008).
 
Lm Nguyễn Hồng Giáo nhận định: Xã hội ta thì xưa nay đã quá quen với việc làm dối, nói dối, báo cáo láo đến nỗi dường như không còn coi đó là một điều xấu nữa. Chúng ta còn nhớ một khẩu hiệu được tung ra thời đầu đổi mới là “Nói thẳng, nói thật”. Có chủ trương như thế là vì có tình trạng quanh co, gian dối. Một bài thơ châm biếm đăng trên Sài Gòn Giải phóng ngày 18. 5. 1990 có nhan đề đáng để ý.
 
Thôi xài chữ giả
Chữ nghĩa du di chả mấy hồi
Đói không nói đói, “thiếu ăn” thôi!
Học hành “hạn chế”: y chang dốt
Báo cáo “tuy nhiên”: ắt hẳn… tồi.
“Vượt mức chỉ tiêu”? Nên bớt nửa,
“Có phần sơ sót”? Hãy nhân đôi…
Mực đen gấy trắng đòi trung thực
Chữ giả xài lâu hỏng lắm rồi. (Long Vân)
Các nhà nghiên cứu đã phân tích và nêu lên nhiều nguyên nhân của tình trạng thiếu trung thực tràn lan. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng, ta còn có thể nghĩ tới một nguyên nhân sâu xa mà hình như chưa ai đề cập tới cách thẳng thắn. Đó là liệu tình trạng này có liên quan cách nào đó chăng tới nhân sinh quan chính thức của xã hội ta hay ít nhất là tới một cách làm, cách nghĩ lâu đời đã ăn quá sâu vào trong tâm thức của giới cầm quyền và nhân dân? Tôi không dám khẳng định mà chỉ nêu câu hỏi như một “giả thuyết làm việc”, như người ta quen nói trong phạm vi nghiên cứu khoa học (hypothèse de travail)… Tôi thiển nghĩ, muốn cải tổ giáo dục theo chiều hướng trung thực, cần phải có một sự cải tổ sâu hơn về não trạng và về quan niệm đạo đức, tựu trung là về nhân sinh quan. (x. Giả dối lan tràn, tại sao? Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM).
 
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Trung Tín (1 Tx 5,24). Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao cho chúng ta những trách nhiệm lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải là chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội mà sự gian dối đã trở thành “đạo đức”.
 
Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học sinh.
 
Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
 
KHIÊM NHƯỜNG
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chứng nhân sự sáng được sai,
Tiền hô mở lối, đóng vai mọn hèn.
Tiếng kêu hoang địa chong đèn,
Mở đường chiếu giãi, đêm đen vào đời.
Tiên tri cao trọng rạng ngời,
Ẩn thân khiêm nhượng, gọi mời dấn thân.
Vui mừng sứ vụ bình dân,
Dọn đường sửa lối, canh tân lòng người.
Không màng danh lợi ở đời,
Xả thân phục vụ, Chúa Trời Ngôi Hai,
Ngài là ánh sáng thiên thai,
Giê-su Chí Thánh, thiên sai từ trời.
Mở lòng đón nhận Vua Trời,
Thành tâm tôn kính, sống đời khiêm nhu.
Thực hành sống đạo luyện tu,
Nêu gương nhân đức, thiên thu sáng ngời.

Thánh Gioan Tẩy Giả là một nhân chứng khiêm nhường và can đảm. Ngài là vị tiền hô. Ngài xuất hiện để loan báo và dọn đường cho Chúa. Ngài không phải là sự sáng nhưng làm chứng cho sự sáng. Ngài nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Ngài đã hoàn tất sứ mệnh của người làm chứng cho Chân Lý qua cái chết của ngài.

Sống một đời ngắn ngủi nhưng từng bước chân đã ghi dấu niềm xác tín nơi Con Chúa. Qua cuộc sống khắc khổ nơi hoang địa, ngài chuẩn bị cho chính mình một tấm lòng đơn sơ và khiêm nhường. Ngài khơi dậy sự mong chờ và lòng khao khát ơn Cứu Độ. Ngài đã chuẩn bị lòng con người, kêu gọi sửa cho ngay đường Chúa đi. Ngài đã giới thiệu Chúa cho mọi người. Đã hiến mình làm chứng cho Sự Thật.

Chấp nhận thân phận người tiền hô, ngài không tìm vinh quang cho chính mình. Giống như Gioan, chúng ta được mời gọi chia xẻ sứ mệnh rao truyền chân lý của Chúa. Hãy học nơi thánh Gioan, tìm làm vinh danh Chúa. Dẫn dắt nhiều người về với Chúa. Trong sứ mệnh rao truyền Tin Mừng hôm nay, đôi khi vì sự háo thắng, chúng ta lại muốn rao truyền và tìm vinh danh cho chính mình. Muốn người ta biết về mình nhiều hơn. Thay vì giới thiệu Chúa cho người khác, chúng ta tìm giới thiệu chính mình và sự khôn ngoan thông thái của mình. Tìm giải thích Lời Chúa theo ý của mình và uốn nắn theo những sở thích của riêng mình.

Gioan đến làm chứng cho sự sáng. Chúa chính là ánh sáng soi dọi vào đêm tối. Chúng ta hãy truyền đạt ánh sáng mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa Tội. Hãy để ánh sáng của Chúa chiếu tỏ qua cuộc sống của chúng ta. Cầu nguyện để mỗi người là chứng nhân trung thành. Chúng ta đã theo đạo, cần giữ đạo, sống đạo và thực hành đạo để xứng danh Kitô hữu.

Chúa Giêsu đã phán rằng: ‘Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’. Bước theo Chúa, chúng ta sẽ không lạc lối vì có Chúa là Đường. Mọi sự đều quy về Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu là tâm điểm để mọi người xoay quanh. Càng đến gần tâm điểm là Chúa Giêsu, chúng ta càng được sưởi ấm trong tình yêu của Ngài.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
 
GIÁ TRỊ CỦA LỄ GIÁNG SINH
Lm. Giuse nguyễn Hưng Lợi, CSsR
 
Chúa nhật thứ III Mùa Vọng gợi lên cho chúng ta hai hình ảnh thật ấn tượng, hai tư tưởng thật quí hóa: một là tư tưởng vui mừng, hân hoan, phấn khởi vì thời cứu độ đầy khích lệ, đầy an ủi đã gần kề chúng ta; hai là hình ảnh kham khổ, khiêm tốn của Gioan Tẩy Giả, khiến nhiều người đồng thời thắc mắc, tự đặt vấn đề Gioan Tiền Hô là ai vậy?
 
Cuộc đời của các Kitô hữu là cuộc hành trình tiến về Nước Trời, do đó, con người vẫn còn lo âu, vẫn còn thử thách, vẫn còn tội lỗi. Chúa không miễn trừ cho con người những điều khó khăn ấy, nhưng trong mọi hoàn cảnh, Chúa nói chúng ta hãy vui lên. Bởi vì Chúa đang ở giữa chúng ta để chia sẻ nỗi lo âu và hy vọng, làm cho những đau khổ, cũng như niềm vui của chúng ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự an bình chỉ có được nơi người mộn đệ có niềm tin, lòng khiêm tốn cậy dựa, tín thác vào Chúa. Gioan Tẩy Giả đã nêu gương cho chúng ta, cho mọi người về đức tin sống động, sự khiêm tốn tuyệt hảo, nên Ông đã trở nên Đấng Tiền Hô và trở nên cao trọng trong Nước Thiên Chúa. Chúa nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật hồng, khởi đầu bằng câu hát “Mừng vui lên”, mời gọi chúng ta đón nhận niềm vui, tỉnh thức trong hớn hở vui tươi.
 
Thời gian là một thực tại mà tất cả mọi người sống trong lịch sử đều kinh nghiệm. Dòng đời luôn trôi qua, thời gian, bốn mùa thời tiết cứ tiếp tục xoay vần, luân chuyển.Tuy nhiên, thời gian lại là một cái gì đó con người khó lòng định nghĩa, khó lòng xác định. Con người chỉ biết được mình được sinh ra tại một nơi chốn, trong một đất nước, trong một thời giờ và thời gian nhất định. Chỉ có một mình Thiên Chúa là thoát ra ngoài những ràng buộc, những ấn định của thời gian, Ngài sống ngoài những giới hạn của thời gian, bởi vì Ngài sống trong cõi đời đời, không có quá khứ và tương lai. Ngài luôn ở trong cõi vĩnh cửu…Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, muôn loài muôn vật và con người. Chính trong khoảnh khắc của thời gian hay ngày giờ mà Thiên Chúa dựng nên thế giới này, thời gian đã trở thành một thực tại không ai có thể chối cãi được. Do đó, chúng ta nhận ra rằng với lời mời gọi của Abraham đi tới vùng Đất Hứa vào một ngày đặc biệt trong thời gian, lịch sử cứu độ của con người, của thế giới bắt đầu. Thiên Chúa đã ban cho Abraham qua lời hứa của Ngài mà Đấng Cứu Thế đã sinh ra bởi dòng tộc Vua Đavít trong một nơi chốn và trong một thời gian nhất định: ”Gioan Tẩy Giả là Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Độ và nhờ Gioan mà nhân loại nhận ra Ngài khi Ngài đến”.
 
Thánh Gioan trong chương 1,6-8 đã viết: ”Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng“. Sự Sáng là Đấng Cứu Độ mà Gioan chính là người được diễm phúc làm chứng cho Chúa, Gioan đã là chứng nhân trung thành nhất, kiên trì và hoàn hảo nhất cho Đấng Cứu Thế.Gioan Tiền Hô làm chứng cho Đấng Cứu Thế bằng lời nói, bằng gương sáng và bằng hành động của Người. Gioan đã sống đời sống hết sức khổ hạnh, Người đã rao giảng sự sám hối, ăn năn, và qua việc làm chứng của Người: ”Tôi là tiếng kêu trong hoang địa : Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi“ (Ga 1, 23). Gioan Tẩy Giả chỉ là Đấng Tiền Hô và báo trước ngày, thời gian Chúa xuất hiện, sau đó Người rút lui vào bóng tối: ”Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại“. Gioan chính là người nô bộc của Đấng Cứu Thế và Đức Kitô là chủ, là Chúa và là Thầy.
 
Như thánh Gioan Tiền Hô, mỗi Kitô hữu cũng phải là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống của mình. Bởi vì, Chúa Cứu Thế đã tới trần gian như thánh Gioan viết: ”Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người“ (Ga 1, 9). Con Thiên Chúa đã thực sự làm người và ở giữa thế gian: ”Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người“(Ga 1, 10). Chính vì thế gian không nhận biết Người mà nhân loại và mỗi Kitô hữu chúng ta phải làm chứng cho sự hiện của Người. Chúng ta phải như Gioan Tiền Hô minh chứng chính Đấng Cứu Thế là Con Thiên Chúa và Đức Kitô đang sống với, sống vì, sống cho chúng ta, sống cho nhân loại. Và cũng như các Tông Đồ xưa, chúng ta phải làm chứng: ”Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật“(Ga 1, 14). Các Tông Đồ đã nhìn thấy vinh quang của Đức Kitô ở một vài thời điểm trong cuộc đời trần thế của Người (Ga 2, 11 và Lc 9, 32). Chính các Tông Đồ đã nhìn thấy vinh quang trong cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Các Ngài đã làm chứng cho Đức Kitô Nagiarét chết và phục sinh, cũng như Gioan Tẩy Giả đã làm chứng cho chúa Giêsu khi Ngài đến và xuất hiện giữa trần gian, chúng tôi xin được mượn lời của Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI để kết thúc bài chia sẻ này: ” …Ai đã gặp gỡ Đức Kitô trong đời mình rồi thì cảm thấy trong lòng một  niềm thanh thản và hân hoan mà không ai, cũng không tình huống nào có thể xóa đi được.Thánh Augustinô đã hiểu rõ điều ấy trong cuộc đi tìm chân lý, bình an, niềm vui: sau khi đã tìm kiếm trong đủ mọi thứ một cách vô vọng, Ngài kết luận bằng câu nổi tiếng rằng trái tim con người vẫn khắc khoải, không tìm đâu ra sự thanh thản và bình an bao lâu nó chưa được nghỉ ngơi trong Thiên Chúa. Niềm vui đích thực là một ân huệ, phát sinh từ cuộc gặp gỡ với người sống động là Đức Giêsu, từ chỗ đứng chúng ta dành cho Người nơi mình, từ thái độ chúng ta đón tiếp Thánh Thần là Đấng hướng dẫn đời mình“.
 
Lạy Chúa Giêsu, xin mau đến ! Maranatha, Lạy Chúa xin hãy đến ! Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con nhận ra Chúa đang hiện diện giữa Hội Thánh, nơi mỗi người chúng con tiếp xúc hằng ngày. Amen.
 
GỢI Ý ĐỂ CHIA CHIA SẺ :

  1. Chúa nhật III Mùa Vọng nói lên điều gì?
  2. Gioan Tẩy Giả là ai?
  3. Ai đã giới thiệu Chúa Giêsu cho nhiều người bên dòng sông Giorđăng?
  4. Chúa Nhật III Mùa Vọng gọi là Chúa nhật gì? Tại sao?

 
Lm. Giuse nguyễn Hưng Lợi, CSsR
 
CON NGƯỜI VÀ SỨ MẠNG ÔNG
GIOAN TẨY GIẢ
Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện, CSsR
 
Bài Tin Mừng hôm nay tập trung cái nhìn vào chứng từ của ông Gioan Tẩy Giả.
 
Ba câu đầu tiên trích từ lời tựa của sách Tin Mừng thứ tư: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”(1,6-8).
 
Câu 6 giới thiệu về bản thân ông Gioan. Trước hết, ông được giới thiệu là một người, tức là thành phần của cái nhân loại mà sự sống là sự sáng cho họ (1,4). Thứ đến, lời giới thiệu thu hẹp hơn, tức là nói rõ hơn về ông Gioan : ông là kẻ “được Thiên Chúa sai đến”. Và cuối cùng, ông được giới thiệu với một tên riêng cụ thể: “Gioan”.
 
Con người cụ thể ấy được trao cho một sứ mạng. Câu 7 nói về sứ mạng đó : ông có sứ mạng (do Thiên Chúa trao phó) là làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin. Cuối cùng, tác giả Tin Mừng xác định dứt khoát: ông không phải là ánh sáng (c.8).
Phần thứ hai của bài Tin Mừng (1,19-28) thuật lại cho chúng ta lời tuyên bố của ông Gioan về chính ông và về công việc của ông: ông không nhận mình là Đấng Mêsia, nhưng ông làm chứng về Đấng đang đến.
 
Phần thứ hai này bắt đầu bằng một chi tiết về thời gian (“Khi người Do Thái từ Giêrusalem cử mấy người …”c.19) và kết thúc bằng một chi tiết về nơi chốn (“… tại Bêtania, bên kia sông Giorđan…”c.28). Ở giữa hai chi tiết đó là đoạn khai triển câu 8 “ông không phải là ánh sáng” (cc.19-23) và đoạn miêu tả chứng từ của Gioan về ánh sáng (cc.24-28) như đã được nói khái quát ở câu 7. Và như thế, giữa hai phần của bài Tin Mừng hôm nay (cc.6-8 và cc.19-28) có một sự tương ứng khá rõ nét.
 
Khi ấy, một phái đoàn điều tra được hàng lãnh đạo Do Thái tại Giêrusalem sai đến chất vấn ông Gioan. Thành phần của phái đoàn gồm các tư tế và các người Lêvi. Những người Lêvi này chính là các viên chức đền thờ, chịu trách nhiệm về trị an tại đền thờ. Sự hiện diện của những người Lêvi này cho thấy hàng lãnh đạo Do Thái tại Giêrusalem sẵn sàng sử dụng bao lực nếu ông Gioan tự nhận là Mêsia, hoặc nếu họ thấy có yếu tố đáng ngại cho trật tự tôn giáo và chính trị hiện thời trong các hoạt động của ông. Bầu không khí, như vậy, không hề êm đềm.
 
Như đã được nói ở phần đầu bài Tin Mừng, nhiệm vụ của ông Gioan là “làm chứng về ánh sáng”, khơi dậy trong dân nỗi khát khao và niềm hy vọng về ánh sáng, bằng cách chuẩn bị cho dân đón nhận Đấng là sự sống – ánh sáng. Ông loan báo sự xuất hiện của sự sống viên mãn, hoàn toàn đối nghịch với thực tại bóng tối. Sự kiện một phái đoàn đại diện cho quyền bính tối cao của Do Thái tại Giêrusalem được cử đến để chất vấn ông, chứng tỏ các hoạt động của ông đã “khuấy động” và đụng chạm đến thẩm quyền tối cao đó, khiến họ ăn không ngon ngủ không yên. Mà tại sao họ lại phản ứng như thế trước lời loan báo về sự xuất hiện của sự sáng đích thực, nếu không phải là vì chính họ đang thuộc về bóng tối?
 
Cuộc chấn vấn được bắt đầu ex abrupto, bỏ sang một bên những công thức lịch sự. Họ lập tức hỏi : “Ông là ai?” Một cách hỏi sống sượng và trịch thượng, đồng thời bao trùm sắc thái dọa nạt, “dằn mặt”.
 
Trả lời cho lời chất vấn sống sượng và đe dọa đó, ông Gioan tuyên bố không úp mở, ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Kitô” (c.20). Lời tuyên bố cho thấy ông Gioan biết ý đồ của những người đến chất vấn ông. Trong quan điểm của hàng lãnh đạo Do Thái giáo đương thời, tự nhận mình là Mêsia tức là tự đặt mình vào thế đối nghịch với hệ thống quyền bính hiện hành, là âm mưu thay đổi các thiết chế đương thời. Vì thế, không lạ gì khi giới cầm quyền Do Thái lo sợ trước những hoạt động của ông Gioan.
 
Bài Tin Mừng đặt song song câu trả lời của ông Gioan rằng “Tôi không phải là Đấng Kitô” (c.20) với lời quả quyết của tác giả sách Tin Mừng: “Ông (Gioan) không phải là ánh sáng” (c.8). Ông Gioan biết mình không phải là ánh sáng, và vì thế, không phải là sự sống, bởi lẽ “sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (1,4). Ông không thể đem lại sự sống cho những con người đang phải đau khổ dưới sự áp bức của sự tăm tối. Ông chỉ có thể khơi lên nơi họ sự khao khát và niềm hy vọng. Ông ý thức mình không phải là Đấng cứu dân, và không muốn người ta hiểu lầm như thế.
Họ lại hỏi ông: ‘Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không?” (c.21a). Phần thứ nhất của câu hỏi cho thấy một sự mất hướng và lúng túng của phái đoàn điều tra. Họ hoàn toàn có thể trực tiếp hỏi: “Ông có phải là ông Êlia không?” nếu họ không lúng túng.
 
Theo Ml 3,22tt, ngôn sứ Êlia phải chuẩn bị cho ngày của Đức Mêsia xảy đến: “Các ngươi hãy ghi nhớ Luật Môsê, tôi trung của Ta. Trên núi Khôrếp, Ta đã truyền cho nó các chỉ thị và phán quyết để toàn thể Israel thi hành. Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng. Nó sẽ đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông, kẻo khi Ta đến, Ta sẽ đánh phạt xứ sở đã bị án tru diệt”. Theo một cách hiểu, như thế, cuộc trở lại của ông Êlia được gắn với lòng trung thành đối với Luật Môsê, xét như là sự chuẩn bị cho biến cố Đấng Mêsia đến. Ông Gioan không thể đồng hóa mình với vị ngôn sứ đó. Ông là tiền hô đi trước Đấng Mêsia – Đấng sẽ thiết lập giao ước mới (1,15.27), và giao ước cũ dựa trên Luật Môsê không còn giá trị nữa (x. 1,17). Vì thế, ông Gioan đã trả lời một cách rõ ràng và dứt khoát: “Không” (c.21b). Quả thực, ông Êlia đã từng có một chức năng tích cực trong việc hòa giải và tái tạo sự hợp nhất toàn bộ các thiết chế của Luật; còn phép rửa của ông Gioan, trái lại, sẽ là dấu hiệu của sự đoạn tuyệt với các thiết chế đó.
Cuộc chất vấn tiếp tục với câu hỏi thứ ba: “Ông có phải là vị ngôn sứ không?” Ông đáp: “Không” (c.21c). Tước hiệu “vị ngôn sứ” ám chỉ Đnl 18,15 và được giải thích như là hình ảnh của một Môsê đệ nhị, sẽ xuất hiện vào thời cùng tận. Nếu hình ảnh “Êlia” liên quan đến ngày của Đức YHWH trong tương lai, thì hình ảnh “vị ngôn sứ” tiếp nối dòng chảy của quá khứ. Ông Gioan từ chối đồng hóa mình với hình ảnh đó. Nhiệm vụ của ông là loan báo sự hiện diện của thực tại mới mẻ, sự hiện diện của Đấng Mêsia – Chàng Rể (1,27.30; 3,29), Đấng khai mở giao ước mới. Trật tự các ngôn sứ Cựu Ước, những người nói những sấm ngôn của Đức YHWH trong khung cảnh của giao ước cũ, đã kết thúc.
 
Như thế, ông Gioan đã lần lượt từ chối cả ba tư cách mà những người lãnh đạo Do Thái muốn gán cho ông hay muốn đề nghị với ông. Cuộc chất vấn có nguy cơ kết thúc mà phái đoàn điều tra chẳng làm rõ được bất cứ chuyện gì. Họ lúng túng nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính mình?” (c.22). Họ đề nghị ông Gioan tự xác định về chính ông. Họ không thể trở về mà không có được bất cứ thông tin gì. Họ quay lại với câu hỏi ban đầu, nhưng cung giọng bớt trịch thượng và không còn sắc thái đe dọa.
 
Ông là ai?
Ông tuyên bố: “Tôi, tiếng hô trong hoang địa : Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaya đã nói” (c.23). Cuối cùng, ông Gioan cũng đưa ra một lời tuyên bố tích cực.
 
“Tiếng hô” là để cho người nghe, và điều quan trọng nhất vẫn là nội dung của lời được hô lên. Là tiếng hô, ông Gioan không nói về chính ông, mà nói về những điều cần thiết cho những người mà ông hô lên cho họ nghe. Đưa ra lời tuyên bố để phái đoàn điều tra về trả lời cho những người đã cử họ đến, ông Gioan kêu gọi những người lãnh đạo Do Thái cất bỏ những chướng ngại vật trên con đường Đức Chúa đi. Trước hết, đó là những chướng ngại do chính họ đặt ra.
 
Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisêu. Họ hỏi ông Gioan : “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” (cc.24-25). Câu hỏi này rõ ràng cũng là một lời tố cáo. Lần đầu tiên hoạt động của ông Gioan được đề cập, và cụ thể ở đây là việc ông làm phép rửa.
 
Phép rửa hay phép dìm vốn là một hành động biểu tượng được thực hiện trong đời sống tôn giáo và trong lãnh vực dân sự nữa. Trong đời sống tôn giáo, nó được cử hành như một nghi thức thanh tẩy. Trong đời sống dân sự, và trong những cuộc hoán cải mang tính tôn giáo, thì ngược lại, phép rửa là biểu tượng trước hết cho sự thay đổi tình trạng, quyết định chôn dìm quá khứ để bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn khác, ví dụ phép dìm chứng tỏ sự vượt qua từ tình trạng nô lệ sang tình trạng tự do, hay phép dìm diễn tả sự từ bỏ các xác tín và thực hành tôn giáo cũ đồng thời sự dấn thân gắn bó với những xác tín và thực hành Do Thái giáo… Trong những trường hợp này, phép rửa diễn tả một sự thay đổi hướng dấn thân hay đối tượng thờ phụng.
 
Ông Gioan không làm phép rửa như một nghi thức tẩy uế, mà là phép rửa của lòng sám hối, của sự đổi đời. Ông đến để làm chứng cho ánh sáng, ngõ hầu nhờ ông, mọi người tin. Ông mời gọi người ta tin vào sự sống-sự sáng, tức là tin vào Đấng Mêsia và như thế, cắt đứt sự gắn bó với bóng tối / sự chết.
 
Ông Gioan không thuộc về bất cứ thiết chế nào của Do Thái giáo. Khi đến nhận phép rửa của ông, dân chúng chấp nhận ông như là người được Thiên Chúa sai đến, và đón nhận sứ điệp của ông, tức là sứ điệp đòi hỏi sự cắt đứt với các thiết chế hiện hành để chuẩn bị đón Đấng là ánh sáng thật.
 
Phép rửa của ông Gioan là phép rửa trong nước, như ông khẳng định: “Phần tôi, tôi làm phép rửa trong nước” (c.26a). Đó chưa phải là phép rửa chung cục, mà chỉ là sự chuẩn bị để đón Đấng sẽ đến; chính Ngài sẽ ban phép rửa tối hậu và mang tính quyết định : phép rửa trong Thần Khí. Nước là yếu tố tự nhiên đang có đó, Thần Khí là thực tại siêu nhiên cõi trời và hoàn toàn mới mẻ tinh khôi. Nước thuộc về thế giới vật lý và chỉ có thể “tiếp giáp” với thực tại vật lý; Thần Khí thì thấm nhuần vào chính cõi lòng thâm sâu của con người. Nước có thể biểu tượng cho một sự biến đổi, Thần Khí là sức mạnh thần linh và là thực tại duy nhất có thể thực hiện sự biến đổi siêu nhiên và đích thực.
 
Ông Gioan nói tiếp: “Nhưng có một vị đang đứng giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau tôi và tôi không xứng đáng cởi quai dép cho Người” (c.27). Đấng mà phép rửa của ông Gioan chuẩn bị để đón, đã thực sự hiện diện, nhưng sự hiện diện đó còn chưa được biết đến. Ông Gioan khẳng định sự thua kém của ông đối với Đấng ấy bằng cách nói rằng ông không đủ cao cả để có thể chiếm chỗ của Người : “Tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Theo luật Do Thái, khi một người đàn ông chết mà chưa có con, thì một người trong họ hàng phải kết hôn với người đàn bà góa đó để sinh con cho người đã chết. Nếu người có quyền và có bổn phận làm việc đó mà không thể thực hiện được, thì một người khác sẽ thay chỗ anh ta. Nghi thức tuyên bố người kia mất quyền sẽ là cởi dép (x. Đnl 25,5-10; Rt 4,6-7).
 
Khi khẳng định mình không thể chiếm chỗ của Đấng đang đến, ông Gioan cũng đồng thời khẳng định Người là Chàng Rể. Các ngôn sứ thường dùng ẩn dụ hôn nhân để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa với dân trong giao ước. Chàng Rể đang đến sẽ loan báo sự khai mở một giao ước mới. Như thế, Người chính là Đấng Mêsia. Phép rửa của Gioan chỉ là sự chuẩn bị cho cô dâu (là dân), nên xứng hợp với Chàng Rể đang đến để cưới nàng.
 
Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giorđan, nơi ông Gioan làm phép rửa” (c.28). Đây là một vị trí chính yếu mang tính ẩn dụ, và do đó, xác nhận lời giải thích về phép rửa của ông Gioan : đoạn tục với các thiết chế Do Thái và dấn thân gắn bó với niềm hy vọng về Đấng giải thoát đang tới.
 
Tóm lại, ông Gioan không nhận mình là Êlia hay vị ngôn sứ (và tất nhiên ông càng không nhận mình là Đấng Mêsia). Ông không nhận về mình bất cứ chức năng nào có thể khiến người ta tập trung chú ý vào con người ông. Và khi phải đưa ra một khẳng định tích cực về mình, ông chỉ nói mình là tiếng hô. Ông Gioan không tìm vinh quang cho ông. Sứ mạng của ông chỉ là làm chứng. Ông không tìm cách tự thể hiện mình. Ông đến để Đức Giêsu tỏ mình ra cho Israel (1,31). Còn chúng ta?
 
Để chuẩn bị đón Chúa đến, ông Gioan làm phép rửa cho dân biên kia sông Giorđan. Đó là phép rửa biểu tượng cho một thái độ tâm linh bên trong : cắt đứt với thế giới của bóng tối và hướng lòng về ánh sáng-sự sống. Đó cũng phải là thái độ tâm linh của chúng ta trong những ngày cuối Mùa Vọng này.
Hãy sửa đường cho thẳng để Chúa đi”.
 
 
Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện, CSsR
 
 
BỆNH THÀNH TÍCH
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
 
Con người thường thích tạo ra vẻ hào nhoáng cho mình. Đó là điều mà thế gian bảo là thích đánh bóng cho bản thân. Bệnh thích đánh bóng cho bản thân mù quáng đến độ  tự tạo cho mình một cái vỏ bọc hào nhoáng nhằm tìm kiếm những fan hâm mộ cho mình.
 
Ngày nay với công nghệ thông tin hiện đại, con người lại càng dễ dàng đánh bóng bản thân. Họ tự do tô vẽ mình trên các diễn đàn online, blog cá nhân, nơi mà mọi thứ, kể cả cuộc sống, đều là ảo. Họ sống ảo và ảo tưởng về chính bản thân mình. Đôi khi sự ảo tưởng còn trở thành lố bịch cho thiên hạ.
 
Có một chàng trai từng sinh ra và lớn lên ở một thị trấn nhỏ. Anh lên thành phố học và trở thành một luật sư. Ra trường thất nghiệp, anh ta quay trở về quê mở một văn phòng luật sư ở ngay trung tâm thị trấn và trang trí cực kỳ bắt mắt.
 
Tuy nhiên, thị trấn nơi anh ở vốn rất yên bình và chẳng mấy khi người ta cần luật sư cả. Chờ mãi mà không thấy khách hàng nào đến, anh chàng lấy làm rầu lòng lắm!
 
Một hôm, anh ta nhìn thấy một người đàn ông bước vào văn phòng của mình. Để ra oai, ngay khi người đàn ông bước vào, anh ta liền nhấc ngay điện thoại và nói một cách lưu loát, vừa nói vừa ra hiệu cho người đàn ông ngồi chờ:

  • Không, tất nhiên là không thể được! Tên tội phạm đó nổi tiếng nguy hiểm ở thành phố này và tôi không thể chấp nhận vụ này với giá ít hơn 100 ngàn đôla… Thật sao? Tại sao Tòa án tối cao lại có thể đưa ra phán quyết như thế cơ chứ?… Được rồi, anh yên tâm, vài ngày nữa tôi sẽ đến gặp ông chủ của anh để bàn bạc chi tiết hơn về vấn đề này… Yên tâm nhé! Tôi quyết theo vụ này đến cùng… Rồi! Ok! Ok!…

Đoạn anh ta gác máy và bước đến bắt tay người đàn ông nãy giờ đang ngồi chờ:

  • Tôi thật sự xin lỗi vì đã để ngài chờ lâu như thế. Nhưng mà ngài thấy đấy, tôi quả là rất bận rộn… À, mà ngài đến đây có việc gì vậy nhỉ?

Người đàn ông trả lời:

  • Tôi là nhân viên bưu điện đến để nối dây điện thoại cho anh thôi. Điện thoại anh hư rồi mà sao anh vẫn nói chuyện được nhỉ?

Thật xấu khổ khi tự đánh bóng mình mà bị phát hiện. Thật không có sự xấu hổ nào đáng thương khi giả dối bị phơi bày ra ánh sáng. Điều đáng sợ là người đánh bóng chính mình sẽ tự giết mình trong cô độc và cô đơn.
 
Trong Thần thoại Hy Lạp có một chàng trai tên là Narcisse, con của thần sông và tiên nữ Liriopé. Chàng đẹp đến nỗi có quá nhiều nữ thần say mê van xin tình yêu nhưng chàng vẫn một mực lạnh lùng từ chối.
 
Trong số những kẻ thất tình có Echo. Đau khổ vì bị Narcisse từ chối, Echo cầu xin các vị thần và các nữ thần cùng yêu chàng tập hợp lại để trừng phạt chàng. Từ đó, Narcisse sẽ chỉ được phép yêu chính bản thân chàng.
 
Một lần, Narcisse nghỉ ngơi bên bờ suối, chợt nhìn thấy bóng mình dưới nước, chàng ngẩn ra ngắm mình và chợt hiểu vì sao biết bao con tim của các cô gái lại tan vỡ vì mình. Càng ngắm, chàng càng ngưỡng mộ và say đắm cái bóng của mình. Nhưng cứ đụng tay vào nước suối, cái bóng lại tan vỡ. Cuối cùng, chàng chết trong mòn mỏi, với một khối tương tư cái bóng của chính mình.
 
Yêu mình và đánh bóng chính mình là chúng ta đang tự cắt đứt liên hệ với tha nhân. Điều đó dẫn con người đến chết trong cô độc. Nhưng tiếc thay, con người qua mọi thời đại lại thích đáng bóng chính mình. Họ tự phô diễn mình, đề cao mình và điều đó khiến họ trở nên cô đơn giữa anh em, và đôi khi chết trong cô độc.
 
Thánh Gioan Tẩy Giả đã không đánh bóng chính mình. Ông đã làm mọi việc chỉ để giới thiệu Chúa cho tha nhân. Ông không ảo tưởng về mình, dù cho nhiều người từng ngộ nhận ông là Đấng Messia, nhưng ông đã tự biện bạch cho mình và còn lợi dụng cơ hội tốt lành này để giới thiệu Chúa cho tha nhân. Ông không nhận mình là ánh sáng mà chỉ là người được phản chiếu từ ánh sáng Thiên Chúa. Ông chỉ nhận mình là chứng nhân cho Đấng phải đền trong thế gian.
 
Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ được một vài thành tích đã nghĩ mình là Thiên Chúa. Họ ảo tưởng về những gì mình có là do tài trí, khôn ngoan của mình. Họ cố tình gạt Thiên Chúa để nhận mình là trung tâm mọi sự. Họ còn thêu dệt quanh đời mình bằng những thành tích, những hư danh để đánh bóng chính mình. Điều không ai ngờ là càng đánh bóng chính mình thì lại càng thất vọng về mình. Càng đề cao mình thì càng làm cho mình không bao giờ thỏa mãn về những gì mình đang có. Đó là điều khiến con người không bao giờ hạnh phúc về mình, và càng không bao giờ hạnh phúc về những gì mình đang có. Chỉ khi nào nhìn nhận những gì mình có là ân ban của Trời thì lúc đó con người mới hạnh phúc vì ân lộc trời ban. Chỉ khi nào con người gỡ bỏ đi những bệnh thành tích, ảo tưởng, đánh bóng chính mình thì lúc đó con người mới cảm thấy hạnh phúc về những gì mình đang có, lúc đó con người mới vui với phận mình mà cám ơn Thiên Chúa.
 
Mùa vọng nhắc nhở chúng ta Thiên Chúa đã đến với chúng ta và ở cùng chúng ta. Ngài hiện diện trong những thăng trầm cuộc đời chúng ta. Chính Ngài sẽ dẫn dắt cuộc đời chúng ta đi trong tình yêu quan phòng của Ngài. Ngài sẽ bảo vệ, chở che nâng đỡ chúng ta. Thế nên, chúng ta hãy vui mừng vì Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta. Hãy vui mừng vì Ngài đang đồng hành với chúng ta. Hãy vui mừng vì Thiên Chúa đang can thiệp vào từng cuộc đời chúng ta. Xin cho chúng ta luôn tín thác vào Chúa dẫu cuộc đời còn đó những ngổn ngang lo lắng. Sự tín thác sẽ giúp chúng ta an vui trong cuộc sống  và bước đi trong sự tin tưởng nơi Ngài. Amen.
 
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
 
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG NĂM B
Lm. Phêrô Trần Thế Tuyên
 
I.  GÍÁO HUẤN P.Â.:   
Giáo huấn của các bài đọc trong Chúa Nhật III Mùa Vọng năm B là ‘hãy vui mừng’

  • Tiên tri Isaia vui mừng vì Thiên chúa tuyển chọn ông, xức dầu cho ông và sai ông đem Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho kẻ lưu đày, phóng thích cho tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
  • Hãy cầu nguyện luôn để có niềm vui như Thánh Phaolô khuyên trong bài đọc hai.
  • Niềm vui làm sứ giả dọn đường cho Ánh Sáng, cho Đấng Cứu Thế nơi Gioan Tiền Hô và nơi mọi người chúng ta: chứng nhân cho ánh sáng, cho Đấng Cứu Thế cao trọng. 

 
II.  VẤN NẠN P.Â.    
Tiên Tri Isaia:Ông sinh khoảng năm 770 trước Chúa Cứu Thế và làm tiên tri rất lâu, 64 năm dưới thời các vua Isael: Uzziah, Jotham, Ahaz và Hezekiah (Is.1.1), vua Giuda. Uzziah làm vua cai trị Israel 52 năm vào khoảng giữa thế kỷ 8. Người ta đoán Isaia thi hành sứ mạng tiên tri một ít năm trước khi Uzziah chết, có lẽ năm 740 trước Chúa Giêsu, tức lúc Ông vào khảng 30 tuổi. Tiên Tri Isaia lấy người vợ được gọi là ‘nữ tiên tri’. Không biết vì bà nầy thật là tiên tri hay vì chồng bà là tiên tri và bà được ‘ăn có’? Tiên tri Isaia có hai con trai, một được đặt tên là Shearjashub có nghĩa là “hồi hương” và một tên là MaherShalal Hash Baz, có nghĩa “cướp phá” Tên gọi người con thứ I nói lên sứ vụ tiên tri của Isaia như báo tin ân xá cho kẻ lưu đày, phóng thích cho tù nhân, công bố năm hồng ân… Tên gọi người con Thứ II nói lên thời gian mà Israel phản bội Chúa, cấu kết với ngoại giáo và nhận chịu hậu quả trừng phạt.
 
Qua việc đặt tên cho hai người con nầy, nhiều người có thể thắc mắc tại sao thời đó mà chỉ có hai con? Hay tại sao chỉ có con trai mà không có con gái. Nêu tên hai con trai không nói rằng: Isaia chỉ có hai con trai hay không có con gái mà chỉ có ý nói về vai trò của tiên tri liên quan đến tên hai người con trai nầy.
 
Nội dung sách Tiên Tri Isaia: Sách dài 66 chương và được chia ra hai phần lớn như sau:

  • Chương 1-35: dân Do Thái gây tội, Đất Do Thái như một vườn hoang, cây cối không có trái. Nên sẽ bị phạt.
  • Chương 40-66: Những chương đầy an ủi và vui mừng: Chấm dứt thời lưu đày và dân sẽ được cứu quay về Giêrusalem và kiến thiết đền thờ Giêrusalem.
  • Đặc biệt có những chương 42, 49, 50, 52 và 53 nói về người nô bộc khiêm hạ, đầy tớ đau khổ của Thiên Chúa. Tất cả đều hướng vể Đấng Messiah sẽ đến trong tương lai để cứu dân khỏi tội và mang ơn cứu độ cho nhân loại.

 
Ảnh hưởng lớn của sách Tiên Tri Isaia: Ngay từ thời sơ khai, Giáo Hội đã dùng Sách Tiên Tri Isaia rất nhiều nhất là lời hứa về Đấng Emmanuel cũng như hình ảnh đầy tớ đau khổ mà người ta thấy thể hiện trọn vẹn nơi Chúa Kitô. Nhiều bài đọc trong mùa vọng và tuần thánh trích từ sách Tiên Tri Isaia.
           
Một trong sứ mạng của tiên tri là: Công bố năm hồng ân của Thiên Chúa (Anna Dei gratia – Year of the Lord’s favor)  Năm hồng ân của Thiên Chúa dựa trên Sách Lêvi 25.10-13 được công bố cứ từng 25 năm. Năm hồng ân công bố rằng: Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá. Đất đai và mọi thứ hiện hữu trên vũ trụ là do Ngài sáng tạo. Thiên Chúa phân phát những sản nghiệp nầy cho nhân loại là những người quản lý gia sản của Ngài. Không ai là chủ cả, mà là tá điền thôi. Nên năm hồng ân cho phép huỷ bỏ mọi thứ cầm cố, vay mượn. Năm hồng ân làm cho mọi người thoát nợ nần và được tự do.
 
Hiện tại Giáo Hội Công Giáo vẫn giữ năm hồng ân, tuy nhiên hướng chiều về điều linh thánh như năm Thánh 2000 được tuyên bố ban hồng ân Chúa cho nhân loại. Ngoài ra Đức Giáo Hoàng cũng có thể tuyên bố năm nào đó là năm thánh, thí dụ từ 19/6/2009 đến 11/6/2010 là Holy Year for priest, Năm Thánh Linh Mục. Giáo Hội Việt Nam lấy năm, 2010 làm Năm Thánh tổ chức Đại Công Nghị cho toàn Giáo Hội. Tất cả chỉ còn là dịp để canh tân, cầu nguyện và hâm nóng đời sống thiêng liêng, chứ không còn là chuyện tha nợ nần vật chất gì nữa.
 
“Thế Ông là ai? Ông nói gì về chính Ông?” Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói”
 
Phúc Âm Matcô viết cho người Kitô hữu ở Rôma thời Giáo Hội Sơ khai. Matcô không là tông đồ, Ông có họ hàng với Barnabê, Ông theo Phaolô đi truyền giáo và nhất là rất gần với tông đồ Phêrô. Phêrô giảng chứ không có viết. Giáo đoàn Rôma biết Phêrô nhiều và ngưỡng mộ Phêrô hơn tất cả. Nên Matcô đóng vai trò ghi lại những gì Phêrô giảng tức giáo lý Phêrô dạy và làm thành Phúc Âm Matcô sau nầy. Do đó, Phúc Âm Matcô ngắn gọn và đơn giản như con người bộc trực và ít suy luận của Phêrô.
 
Vì viết cho những tín hữu đầu tiên ở Roma với mục đích chứng minh Chúa Giêsu thành Nagiarét là con Thiên Chúa thật như đã được tiên báo trong các sách tiên tri. Nên Matcô hay dùng thuật ngữ “ngay tức khắc” để diễn tả Lời Chúa phán có hiệu quả ngay khi chữa bệnh, hay khi trừ tà. Do đó, chúng ta luôn đọc thấy “ngay tức khắc” cơn sốt biến khỏi bà nhạc của Phêrô, ngay tức khắc quỉ ra khỏi người nầy, hay ngay tức khắc họ bỏ chài lưới theo Chúa.
 
Ông Gioan Tẩy Giả không phải đột nhiên xuất hiện. Nhưng Tiên Tri Isaia đã tiên báo về “sứ giả của Đấng Cứu Thế” đến để dọn đường Chúa gần 800 năm trước. Nên khi người ta hỏi Ông là ai, Gioan đã mạnh dạn trả lời: Tôi không là Đấng CứuThế, nhưng chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa đến như Isaia loan báo hàng 800 năm trước. Như vậy, quí Ông thấy tôi đang làm chuyện của Thiên Chúa xếp đặt. Người đang đến là Con Thiên Chúa thật. Con Thiên Chúa cao trọng đến nỗi tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép Ngài…Tôi phải làm cho người lớn lên còn tôi phải nhỏ lại… đó là ơn gọi của tôi đã được tiên báo trong Is.40.3. “Nhưng có một vị đang ở giữa các Ông mà các Ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cổi quai dép cho Người!”
 
Tôi xin dùng kiểu diễn tả tượng hình của người Việt Nam mình để giải thích câu nói về bản tính Thiên Chúa cao cả nơi Đức Kitô của Gioan Tiền Hô.

  • Để diễn tả cảnh chen chút đông người chật chội, người Việt Nam hay nói: đông nghẹt người, hay đông như nêm hay đông như bánh canh.
  • Để diễn tả Tỉnh Bặc Liêu vừa có nhiều cá chốt mà cũng có nhiều người Tàu Triều Châu thì người ta bảo: Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu.
  • Để diễn tả về sang hèn giữa khách mời và gia chủ thì người ta nói: Cám ơn đã dời gót ngọc đến tệ xá.
  • Để diễn tả về vẻ đẹp của một phụ nữ thì người ta bào: sắc đẹp làm chim sa cá lặn hay hoa nhường nguyệt thẹn hay nghiêng thành đổ nước.

Mới đây, một người bạn linh mục đã diễn tả xứ đạo khỉ ho có gáy của Cha ấy bằng một diễn tả thật gợi hình như thấy được. Cha ấy nói: Chỗ tôi muốn mua cục kẹo cũng không có hay chỗ tôi, lúc chín giờ tối chạy xe tìm người đụng cũng không thầy. Còn chỗ nào vắng hơn!
 
“Người đến sau tôi và tôi không đáng cổi quai dép người” Đây là cách diễn tả của Gioan Tẩy Giả để chứng mình Thiên Tính nơi Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả được xếp vào hạng tiên tri và người ta những tưởng Ông là Đấng Messiah, vậy mà so sánh với Chúa Giêsu, ông không đáng cổi dây dép cho Người. Đấng Cứu Thế đang ở giữa chúng ta là Thiên chúa, là Con Thiên Chúa, giữa Chúa và con người, dù là tiên tri như Gioan cũng không thể so sánh. Hoàn toàn khác biệt như chủ nô. Gioan so với Chúa không bằng tên nô lệ với Ông chủ mình, nô lệ còn có thể cổi dép cho chủ, đàng nầy Gioan “không đáng cúi xuống cổi dép Ngài”.
 
Cách diễn tả để tuyên xưng Thiên Tính cao trọng nơi con người Chúa Giêsu, thành Nagiarét, Ngài là Con Thiên Chúa, sinh làm người và ở giữa phàm nhân.
 
III. THỰC HÀNH P.Â.:
Cao ngạo đáng ghét, ai cũng biết! nhưng chúng ta hay tự cao.
Cựu Tổng thống Mỹ George Bush đến thăm Canada và bị dân chúng Calgary AB., chưởi bới rồi xua duổi phải tức tốc lên xe về khách sạn và rời Canada trước dự định. Coi tin tức, tôi thắc mắc why? Người coi TV chung với tôi giải thích: He is so arrogant! He is so haughty!  Ông ta cao ngạo quá!
 
Nhưng thú thật cả người giải thích cho tôi “vì ông ta cao ngạo quá!” cũng không thiếu những kiểu cách cao ngạo trong cuộc sống. Cả tôi, người được nghe giải thích cũng không được khiêm tốn. Nên xem chừng cao ngạo thật đáng ghét nhưng trong cuộc sống, còn quá nhiều đồi núi phải san bằng.
 
Tính cao ngạo có rất nhiều ở những bậc tu trì, những người dạy người khác sống khiêm nhường. Khó có ai tránh khỏi bị các linh mục chỉ trích là thiếu hiểu biết hay ăn học chưa tới. Ít có một linh mục cao niên hay chức cao quyền trọng mà đến ân cần thăm hỏi một anh em khác ít tuổi hay kém thế giá hơn mình. Ít có linh mục nào khen anh em linh mục khác giảng hay. Thường bảo “nghe cũng tàm tạm, nhưng….thế nầy, thế nọ…” Các linh mục ở ngoại quốc thường ít nhận ra khả năng nói tiếng Anh hay tiếng Pháp rất giới hạn của mình.
 
Gia đình ông chủ tịch Hội Đồng Giáo Xứ đã trở nên lạnh nhạt với một Cha khách vì cha nầy không biết nói nịnh theo kiểu “thưa Ông Chánh! hay xin trình với Ông chánh thế nầy thế nọ…” Ông chủ tịch khen lấy khen để Cha Xứ để Cha cho phép xuất hiện trước công chúng và tuyên bố điều nọ, điều kia.. Cũng có những Ông chủ tịch đã tuyên bố bãi chức người nầy, ngăn cấm nhiệm vụ của người khác… Dường như tội kiêu ngạo luôn đứng đầu trong bảy mối tội đầu cũng như chiếm quá nhiều chỗ trong đời sống của chúng ta. Chúng ta đã thành đáng ghét vì thái độ tự cao, cho mình tài giỏi, vì mặt mày vênh váo tỏ ra quan trọng hơn người, vì những lời phê bình ác ý trên những thành công của người khác. Nhiều khi chúng ta sống rất mâu thuẩn ở chỗ: Ai cũng muốn được người khác thương yêu và kính trọng, nhưng lại cao ngạo và tự phụ là cái làm cho người ta ghét.
 
Ông không là ánh sáng, nhưng Ông đến để làm chứng về ánh sáng. Chủ đề ánh sáng được dùng rất nhiều lần trong Phúc Âm Thánh Gioan để mô tả Thiên chúa là Ánh sáng trần gian. Công trình tạo dựng đầu tiên là cho có ánh sáng trong Sách Sáng Thế Ký. Phúc Âm Thánh Gioan luôn khẳng định Chúa Kitô là ánh sáng trần gian như trong Gioan 9:5. Phúc Âm Thánh Matthêô cũng nói chúng ta phải là ánh sáng cho gian trần và là muối men cho đời (Matt.5.14)
 
Thiên Chúa là ánh sáng. Chúng ta là con Chúa, tức con của sự sáng. Tự bản chất chúng ta không có ánh sáng nhưng chúng ta nhận ánh sáng từ Chúa cũng như quả đất được sáng nhờ ánh sáng mặt trời. Ông Gioan đến làm chứng về Chúa Kitô là ánh sáng trần gian, người ta phải Thấy Chúa Kitô là ánh sáng qua Ông Gioan. Đó là vai trò chứng nhân cho ánh sáng.
 
Tất cả chúng ta được sinh ra làm con Chúa, được rửa tội, được nhận ánh sáng đức tin, chúng ta phải là chứng nhân cho Thiên Chúa là ánh sáng. Đặc tính của ánh sáng là hiện diện và soi dẫn. Khi thấy có ánh sáng, dù từ ngọn đèn leo lét, chúng ta cũng biết là có ai đó hiện diện, Khi thấy có ánh sáng dù yêu ớt như một que diêm, chúng ta cũng được soi dẫn. Không ai có thể an toàn khi đi trong bóng tối. Hãy là ánh sáng của hy vọng, của một hướng dẫn soi đường cho người chung quanh bằng đời sống chịu khó học hỏi và bằng tinh thần phấn khởi, trẻ trung không thất vọng nản chí trước những khó khăn. Tôi chủ trương: Không bao giờ hết khó khăn cuộc đời và không để khó khăn giết chết đời mình. Xin Chúa là ánh sáng hy vọng cho đời con.
 
Lm. Phêrô Trần Thế Tuyên
 

 


[1] Từ ngữ martyria được dùng 4 lần trong TMNL (Mc 14,55.56.59 và Lc 22,71), cả 4 lần này đều thuộc về cuộc xử án Đức Giêsu.

[2] Câu truyện được đặt trong một tác phẩm trong đó các từ ngữ rõ ràng mang màu sắc pháp lý, như kết án (katêgoreô, 5,45; 8,6), và thuyết phục (elenchô, 3,20; 8,46; 16,8), bảo vệ (paraklêtos, 14,16.26; 15,26; 16,7), án xử (krisis, 3,19; 5,22.24.27.29.30; 7,24; 8,16; 12,31; 16,8.11) và xét xử (krinô, 3,17.18 (2x); 5,22.30; 7,24 (2x).51; 8,15 (2x).16.26.50; 12,47 (2x).48 (2x); 16,11; 18,31). 

Nguồn: tinvui.org

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

For security, use of Google's reCAPTCHA service is required which is subject to the Google Privacy Policy and Terms of Use.

I agree to these terms.