Tìm hiểu Tên Thánh của người Công Giáo Việt Nam

Ngoài tên họ, tên đệm, tên riêng, người Công Giáo Việt Nam còn có thêm một tên thánh được đặt khi chịu phép rửa tội. Trong khi đó, người Công Giáo Âu Mỹ không có hẳn một tên thánh. Bài viết này nhằm mục đích tìm hiểu sự khác biệt giữa tên thánh của người Công Giáo Tây Phương và Đông Phương ?

Ảnh: Aleteia

Nguồn Gốc Tên Thánh:

Tên mà người Công Giáo Việt Nam gọi là
tên thánh thì đó là tên riêng, tên gọi thường nhật của người Công Giáo Tây
Phương. Trong tiếng Anh, có ba danh từ để chỉ tên riêng. Một là tên rửa tội
(baptismal name), hai là tên Kitô Giáo (Christian name), ba là tên thứ nhất hay
tên đặt (first or given name). Cả ba danh từ này đều có nghĩa là tên chính hay
tên riêng (first name hay given name) của một người.

Tên chính của người Tây Phương được đặt
trong lễ rửa tội nên gọi là tên rửa tội . Và tên chính của người Tây Phương được
gọi là tên Kitô Giáo vì các nước Tây Phương chịu ảnh hưởng văn minh Kitô Giáo,
tuân theo lời khuyến cáo của Giáo Hội, đã lấy tên các thánh để đặt tên cho các
cá nhân. Do vậy, mới có từ ngữ tên thánh.

Tục lệ lấy tên thánh bắt nguồn từ tục lệ
đặt tên trong Do Thái Giáo. Sau khi sinh con được một tuần, cha mẹ người Do
Thái bế con tới giáo đường để cử hành nghi lễ đặt tên. Với con trai, nghi lễ đặt
tên diễn ra trong nghi lễ cắt da quy đầu gọi là Bris. Tên được đặt gọi là tên
thánh (sacred name) lấy từ các tên trong kinh thánh của Do Thái Giáo. Khi bị
lưu đầy, người Do Thái bỏ tục lệ đặt tên thánh. Đến thế kỷ 12, các giáo sĩ Do
Thái thấy cần duy trì căn tính dân tộc đã buộc các tín hữu đặt tên thánh như tục
lệ cổ truyền. Nhờ đó mà ngày nay người Do Thái mới có một tên thứ hai là tên
thánh.

Từ điển Bách Khoa Công Giáo, cho rằng tục
lệ đặt tên thánh bắt nguồn từ quan niệm tình trạng con người được thay đổi. Nhận
lãnh bí tích rửa tội là biến đổi sang con người mới. Do vậy, nhận tên thánh là
chứng tích biến đổi về mặt tâm linh. Trường hợp cụ thể là vị tông đồ Paul của
Kitô Giáo, sống vào thế kỷ thứ I sau Công Nguyên, trước đây có tên là Saul, khi
theo đạo Công Giáo đổi tên là Paul mà người Công Giáo Việt Nam gọi là thánh
Phaolô.

Tên Thánh Qua Giáo Luật:

Không có tài liệu nào nói người Công
Giáo bắt đầu đặt tên thánh từ bao giờ. Chỉ biết vào thời giáo hội sơ khai người
Công Giáo tây phương có tục lệ lấy tên thánh làm tên riêng. Do vậy công đồng
Nicaea họp năm 325 cấm người Công Giáo dùng tên các thần thánh không phải của
Kitô Giáo để đặt tên. Đến thời Công Đồng Tridentino họp năm 1563, Giáo Hội Công
Giáo buộc giáo dân khi đặt tên phải chọn tên thánh. Công đồng lưu ý các linh mục
khi làm phép rửa tội, gặp trường hợp cha mẹ cố tình đặt tên không hợp tinh thần
Kitô Giáo, thì vị linh mục đó tự động thêm vào một tên thánh, coi đó là tên thứ
hai và ghi vào sổ rửa tội giáo xứ.

Theo Bách Khoa Từ Điển Britannica, quyết
định trên của công đồng Tridentino nhằm chống lại tục lệ của Giáo Hội Tin Lành,
đặc biệt của Thanh Giáo. Các giáo hội Tin Lành cho phép tín hữu nhận tên các
nhân vật trong Cựu Ước làm tên chính, như các nhân vật Abraham, Samuel, Jacob.
Rachel. Do vậy các nhà tính danh học Âu Châu kết luận: Những người có tên riêng
là nhân vật trong Cựu Ước thông thường thuộc giáo phái Tin Lành, người có tên
riêng là các nhân vật thuộc Tân Ước là người Công Giáo.

Đến bộ giáo luật năm 1917, qua điều khoản
số 761, Giáo Hội nhắc lại khoản luật cũ từ thời Công Đồng Tridentino buộc người
Công Giáo phải lấy tên thánh . Nhưng vào năm 1972, vì thấy việc đặt tên thánh
không thích hợp cho tiến trình hội nhập văn hóa, nên thánh bộ Phụng tự đã bãi bỏ
luật buộc người Công Giáo phải lấy tên thánh. Do vậy, đến bộ giáo luật năm
1983, người ta không thấy có điều khoản nào buộc người Công Giáo phải lấy tên
thánh, mà chỉ quy định tên riêng của người ấy phải phù hợp với ý nghĩa Kitô
Giáo. Điều 855 của bộ giáo luật 1983 quy định: Cha mẹ, người đỡ đầu và Cha Sở
phải lo liệu để đừng đặt một tên không hợp với ý nghĩa Kitô Giáo.

Lý Do Đặt Tên Thánh

Tại sao Giáo Hội Công Giáo đã quyết định
lấy tên các thánh để đặt tên cho tín hữu? Giáo Hội đưa ra quyết định trên vì 2
lý do:

Thứ nhất, giáo hội tiếp tục duy trì truyền
thống của giáo dân thời sơ khai. Những giáo dân đầu tiên là dân nô lệ, không phải
công dân La Mã và theo tục lệ, khi người nô lệ được giải phóng, trở thành công
dân La Mã, thì họ lấy tên riêng của chủ nhân thuộc giai cấp quý tộc làm tên
mình. Tuy nhiên, với tín đồ Kitô Giáo thời đó, họ không thiết tha với các tên của
các ông chủ cũ vì họ là nạn nhân của giai cấp quý tộc trong các cuộc cấm đạo. Ðồng
thời khi một quý tộc trả tự do cho hàng trăm người nô lệ thì hàng trăm người đó
có cùng tên với chủ cũ. Kết quả là tập tục này không đáp ứng được nhu cầu phân
biệt vì thời gian đó, người Âu Châu chưa biết đến tên họ. Tên họ của người Âu
Châu mới xuất hiện vào thế kỷ thứ 10. Do nguyên nhân này nên các người nô lệ được
giải phóngđã lấy tên những người mà giáo hội Kitô Giáo nhận là thánh để đặt tên
cho mình. Ví dụ: Thimotheus, Stephanos, Laurentius là các vị thánh đầu tiên.
Đang khi Kitô Giáo phát triển, lan tràn cả Âu Châu thì đế quốc La Mã bước vào
giai đoạn suy tàn. Hệ thống tên của La Mã mai một đi, tên thánh trở nên phổ
thông hơn.

Thứ hai, Giáo Hội Công Giáo muốn tôn trọng
phẩm giá con người. Khi xưa số tên người Âu Châu còn ít, hệ thống tên họ chưa
xuất hiện, thì để phân biệt, người Âu thường dùng tên mà người Anh Mỹ gọi là
Nickname, người La Mã gọi là Agnomen, còn Việt Nam gọi là tên lóng, tên tục.
Khi xưa tên lóng thường được đặt cho những người thuộc giai cấp nô lệ tại La
Mã. Ví dụ các tên như Crassus nghĩa là người béo, Varus: người què, Baldie hay
Calvin: người trọc đầu, Cecil: người mù, Claude hay Gladys: người què. Vì tên
có nội dung hạ thấp phẩm giá con người nên giáo hội đã ban hành luật buộc các
linh mục khi làm phép rửa tội, gặp các trường hợp tên có ý nghĩa tiêu cực, phải
lấy một tên thánh đặt thêm vào. Giáo dân Việt Nam cũng như giáo dân ở nhiều nơi
trên thế giới vẫn nhận tên thánh vì còn giữ tinh thần bộ giáo luật cũ. Ngày
nay, người công giáo Tây Phương không còn giữ tập tục lấy tên thánh để đặt tên
riêng mà lấy bất cứ từ ngữ nào, có nghĩa hay vô nghiã, để đặt tên riêng.

Ý nghĩa tên thánh đối với người Công
Giáo Việt Nam:

Sở dĩ người Công Giáo Việt Nam, Ðại Hàn,
Nhật Bản, Trung Hoa và các nước truyền giáo khác trên thế giới có thêm tên
thánh mà người Tây Phương không có, là vì các giáo sĩ Tây Phương đến Việt Nam
cũng như các nơi khác truyền đạo, đã áp dụng tinh thần giáo luật cũ, đặt tên
thánh cho giáo dân như đã làm cho giáo dân ở Tây Phương. Trái lại, đọc tiểu sử
hàng giáo phẩm Công Giáo Tây Phương, ta không thấy vị nào có hẳn một tên thánh
riêng như kiểu tên người Công Giáo Việt Nam. Nếu đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn có hẳn
một tên thánh là Gioan Baotixita, thì đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI không có tên
thánh riêng. Tên ngài là Joseph Ratzinger. Joseph là tên riêng vừa là tên
thánh. Một ví dụ điển hình khác là thánh Gemma. Vì bố mẹ Ngài già rồi mới sinh
con nên quý hóa đặt tên ngài là Gemma, có nghiã là ngọc. Trước đó, không có vị
thánh nào tên Gemma cả. Tại San Jose, California vị linh mục chính xứ của tôi
là Kevin Joyce. Kevin là tên riêng, là biến thể của tên Kelvin. Kelvin là tên
con sông ở Tô Cách Lan. Joyce là tên họ. Linh mục Kevin Joyce không có tên
thánh. Do đó người Công Giáo Tây Phương không có tục lệ mừng lễ thánh quan thầy.

Vậy quyết định của các giáo sĩ thừa sai
đặt tên thánh cho người Công Giáo Việt Nam là đúng hay sai? Nếu đặt vào bối cảnh
hiện nay thì đó là điều không chấp nhận được vì tên người Việt Nam hiện nay
không hề được đặt ra để hạ phẩm giá con người như kiểu người Hy Lạp, La Mã ngày
xưa, mà được lựa chọn từ những từ ngữ có ý nghiã tốt đẹp nhất để đặt tên cho
con cái. Tuy nhiên, nếu đặt vào bối cảnh Việt Nam trong thế kỷ 16 thì quyết định
của các thừa sai có thể tạm chấp nhận vì phong tục dân gian lúc đó còn dùng những
tên có nghiã xấu, gọi là tên tục, để đặt cho những đứa trẻ mới sinh ngõ hầu
tránh tà ma. Ví dụ các tên như Bùn, Sẹo, Chó v.v…

Mặc dù giáo luật hiện nay không bắt buộc
tín hữu phải có tên thánh, nhưng việc đặt tên thánh có mục đích rất đáng trân
trọng vì 2 lý do: thứ nhất, để người đó bắt chước gương sáng thánh bổn mạng mà
sống cuộc đời đạo đức; thứ hai, để tín hữu đó được phù trợ nhờ lời cầu bầu của
thánh bổn mạng. Hai mục đích trên được nói trong bộ giáo luật năm 1983, khoản
1186:

Với mục đích cổ võ việc nên thánh của
dân Chúa, Giáo Hội khuyến khích mọi tín hữu, lấy tình con cái, tôn kính đặc biệt
Đức Maria hồng phúc trọn đời đồng trinh, Mẹ Thiên Chúa đã được Đức Kitô đặt làm
Mẹ của loài người, cũng vậy, Giáo Hội cổ động lòng tôn kính chân chính và thành
thực đối với các thánh, vì lẽ các tín hữu được kiên vững nhờ gương sáng và được
nâng đỡ bởi lời bầu cử của các ngài .

Hiện nay, người Công Giáo Việt Nam thường
chọn tên các thánh nam giới cho phái nam và thánh nữ giới cho phái nữ. Ngoài
ra, vì sự hiểu biết của giáo dân còn hạn chế về các thánh nên người ta thường
chọn các thánh thời Chúa Giêsu như Phêrô, Phaolô, Gioan, Maria, Anna làm tên
thánh. Ngày nay, Giáo Hội Việt Nam có cả trăm vị thánh tử đạo. Tuy nhiên, giáo
dân Việt vẫn chưa quen nhận các thánh Việt Nam làm tên bổn mạng.

Nguyên Tắc Xưng Hô Tên Thánh

Trong giao tế xã hội, người Âu Mỹ không
lấy tên riêng mà lấy tên họ của một người để xưng hô. Người ta gọi Tổng Thống
Obama, không ai gọi là Tổng Thống Barack. Obama là tên họ, Barack là tên riêng.
Khi chưa lên ngôi Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, người ta dùng tên họ Ratzinger để gọi
ngài, không ai gọi ngài bằng tên đẻ là ĐHY Joseph. Chỉ trường hợp thân thiết lắm,
người ta mới dùng tên riêng để xưng hô. Ở Việt Nam, để tỏ lòng tôn kính, giáo
dân có tục lệ dùng tên thánh để gọi một vị Giám Mục, Linh Mục. Ví dụ Đức Cha
Giuse Nguyễn Chí Linh được gọi là Đức Cha Giuse. Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm
Minh Mẫn được gọi là Đức Hồng Y Gioan Baotixita.

Ở Việt Nam người Công Giáo có tục lệ mừng
lễ bổn mạng là ngày mà toàn thể Giáo Hội Công Giáo trên thế giới tưởng nhớ tới
vị thánh đó. Khi chết, người Công Giáo không dùng tên húy hay tên riêng mà dùng
tên thánh để cầu nguyện cho người quá cố. Như vậy, xét về mặt hội nhập văn hóa,
tên thánh cũng có chức năng như tên thụy, tên hèm hay tên cúng cơm là các tên
mà các người không phải là Công Giáo đã dùng để cầu nguyện cho người đã chết.

Nguyễn Long Thao

nguồn: conggiao.info

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

For security, use of Google's reCAPTCHA service is required which is subject to the Google Privacy Policy and Terms of Use.

I agree to these terms.