Thánh Helena đã đối diện với cuộc hôn nhân trắc trở như thế nào

Chúng ta đang ở trong thời điểm mà nhiều người Công giáo không còn tin rằng có thể sống theo giáo huấn về hôn nhân của Giáo hội… nhưng thực ra đó là điều có thể

Trong hoạt động ngăn chặn việc ly dị, và ủng hộ hôn nhân bền
vững theo như ý muốn của Đức Kitô, tôi thường xuyên liên lạc với những người
nam và người nữ bị suy sụp, họ là những người bị vợ hoặc chồng ruồng bỏ. Khi
chúng ta mừng lễ thánh Helena – vị nữ hoàng, mẹ của vua Constantinô, và quan thầy
của những người phụ nữ đã ly dị – tôi bị đánh động bởi sự khác biệt trong cách
những người Công giáo đối xử với những người vợ bị bỏ rơi hiện nay và quá khứ.

Chồng của Nữ hoàng Helena, một hoàng đế của Đế quốc Rôma Tây
phương, đã ruồng bỏ và ly dị bà rồi kết hôn với người khác. Helena sống độc
thân trong khoảng đời còn lại, nhắc nhớ đến lời dạy của thánh Phaolô: “Còn với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh
này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng, mà nếu đã bỏ chồng,
thì phải ở độc thân hoặc phải làm hoà với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ”
 (1Cr
7,10-11).

Vì không bao giờ có cơ hội hòa giải với người chồng ương ngạnh,
nên Helena đã kiên định sống cuộc sống của mình như một “người chung thủy” – một
người, trong trường hợp này là người vợ, giữ vững lời thề hứa hôn nhân, bất chấp
lựa chọn và hành động của người bạn đời bỏ rơi mình.

Chúng ta không thích nói về những người chung thủy trong
chính nền văn hóa của mình
,
vì điều này khiến chúng ta khó chịu khi nghĩ đến việc những người thân yêu của
chúng ta phải chịu sự cô đơn lẽ bóng trong suốt phần đời còn lại. Sự bất an lớn
hơn nữa có lẽ đến từ một nỗi sợ ẩn khuất của khoảng thời gian chúng ta sống
trung thành cho đến chết như đã hứa nếu người bạn đời ra đi. Việc này dẫn đến sự
ủng hộ rộng rãi và thậm chí thúc ép việc ly dị, tiêu hôn, và “tiến tới” cuộc
tình kế tiếp trong thời đại hôm nay.

Nhưng đâu là chỗ đứng của “những người chung thủy” trong tâm
trí của Giáo hội? Sự khôn ngoan xưa cũ của Giáo hội ngày nay vẫn còn đúng đắn
như vào thời mà Đức Giêsu và thánh Phaolô khuyên dạy rằng những người phối ngẫu
hãy trung thành cho đến cùng, dù bị lìa bỏ. Trong Familiaris
Consortio
, Thánh Gioan Phaolô II tuyên bố:

“Cộng đồng Giáo hội phải
nâng đỡ người ấy hơn bao giờ
, phải đem lại cho người ấy sự quí mến, liên đới
cảm thông và giúp đỡ cụ thể để người ấy có thể trung
thành
 ngay cả trong tình cảnh khó khăn của mình; phải giúp người ấy biết
vun trồng sự tha thứ mà tình yêu thương Kitô giáo đòi hỏi và biết luôn luôn sẵn sàng nối lại cuộc sống vợ chồng trước kia.

Trường hợp một người phối ngẫu bị bó buộc phải chịu ly dị
cũng tương tự như thế khi, vì ý thức rõ tính cách bất khả phân ly của dây hôn
phối thành sự, người ấy không để mình bị
lôi cuốn vào một sự kết hợp mới
, nhưng chỉ ra sức chu toàn các bổn phận gia
đình và các trách nhiệm Kitô hữu của mình. Lúc đó, chứng
tích của họ về sự trung thành và về sự ăn khớp của mình với đời sống Kitô hữu
có một giá trị thật đặc thù đối với thế giới và Giáo hội” 
(FC 83).

Đáng tiếc là trong những ngày này, thánh Helena, cùng với các
thánh nữ khác, những người đã giữ vững lời thề hứa hôn nhân dù bị bỏ rơi hay
ngược đãi, đang bị xem nhẹ (thậm chí là khinh thường) vì chứng từ anh hùng của
mình. Lấy thánh Mônica và Rita làm ví dụ, cả hai là bổn mạng của những người phối
ngẫu bị ngược đãi và những người gặp khủng hoảng hôn nhân. Đối với người chồng
ngoại giáo có tình tình nóng nảy, thánh Mônica đã cư xử bằng “sự nhẫn nại tuyệt vời và những lời cầu nguyện
liên lỉ cùng với hình mẫu về lòng bao dung”
. Tương tự như vậy, thánh Rita “đón nhận sự hung bạo [của người chồng] với sự
bao dung và nhẫn nại”
 cùng nhiều năm cầu nguyện và tin cậy vào Chúa.
Cuối cùng, cả hai người phụ nữ đã chinh phục được người chồng sắt đá, giúp cho
phần rỗi linh hồn của họ (và của cả những đứa con trai ngỗ nghịch).

Hai châm ngôn kể trên là một niềm an ủi cho nhiều độc giả
Công giáo trong bất kỳ thời đại nào trước đây. Tuy nhiên, những mẫu gương thánh
này lại khó đánh động thế giới đương đại, một thế giới ngày càng mang cảm thức
thế tục. Quả đáng buồn khi tôi thậm chí đã chứng kiến một số người Công giáo
lên án những vị thánh này, xem họ là những chứng nhân hết sức vô trách nhiệm và
cực kỳ nguy hiểm.

Nếu chúng ta cảm thấy khó chịu vì đời sống và lựa chọn của những
phụ nữ thánh thiện này, có vẻ chúng ta có ba lựa chọn để ứng xử: xem thường,
tha thứ, hoặc viết lại câu chuyện lịch sử.

Việc xem thường cách công khai thường ít gặp, dù không phải
chưa từng nghe đến. Một số sẽ tha thứ cho những người phụ nữ này khi một mực
cho rằng Helena, Monica và Rita chắc chắn sẽ không hành
động như vậy trong thời đại khai sáng ngày nay. Họ cho rằng văn hóa thời đó còn
lạc hậu và phụ nữ chịu áp bức, như thế, họ không phải là những hình mẫu chuẩn mực
cho phụ nữ hiện đại, dù cho họ có “thánh thiện về mặt cá nhân” đi nữa. Còn một
số sẽ viết lại hạnh tích, biến những người phụ nữ vui lòng nhận chịu thập giá nặng
nề trong hoàn cảnh sống của họ trở thành nét đặc trưng của phong trào nữ quyền:
“Cô ấy là một phụ nữ mạnh mẽ và gan dạ!”.

Giờ đây, chúng ta cùng làm rõ vấn đề này! Giáo hội không đòi hỏi người phối ngẫu bị ngược
đãi phải ở lại và chịu ngược đãi thêm. Theo giáo luật, trong các trường hợp ngoại
tình ngoan cố, “gặp nguy hiểm nghiêm trọng
về tinh thần hay thể xác”
, hoặc những hoàn cảnh không thể cứu vãn, việc ly
thân của cặp phối ngẫu được chấp nhận với phép của giám mục, nhưng “trong tất cả mọi trường hợp, khi hết lý do ly
thân thì phải lập lại cuộc sống chung vợ chồng”
 (Giáo luật 1151-1155).
Việc ly thân này cũng không phải được cho phép bằng mọi giá như cách hiểu hiện
nay – thông điệp Arcanum Divinae của
Đức Giáo hoàng Lêô XIII ban hành năm 1880 là một ví dụ. Và dù ly dị dân sự có
thể được “cho phép” trong các tình huống được hạn định, nhưng dây hôn phối vẫn
còn nguyên vẹn (ly dị dân sự không làm cho một người trở nên “độc thân”), và điều
mà Giáo hội – và cả Đức Kitô – hy vọng luôn là sự tái hợp.

Nhưng sự thật đáng tiếc là quan điểm của Giáo hội về vấn đề
này – cặp phối ngẫu phải tích cực hướng tới sự tái hợp, ngay cả trong những
hoàn cảnh có vẻ bất khả thi – đã bị thời hiện đại cự tuyệt. Chúng ta đang sống
trong một môi trường mà khi các linh mục hay bạn bè khuyên người khác chiến đấu
cho cuộc hôn nhân của mình hay ở lại khi gặp khó khăn, thì những người Công
giáo lại xem đó là chuyện mà những người phụ nữ như thánh Mônica hay Rita mới
làm được. Và một số phụ nữ, những người được thôi thúc cứu vãn cuộc hôn nhân đầy
tranh cãi hay bất ổn, phải đối diện với thứ được mô tả là “sự ở lại nhục nhã” –
tức bị bỏ rơi trong một cuộc hôn nhân mà mình không muốn lìa bỏ là một điều nhục
nhã.

Tiến sĩ Ronda Chervin, trong cuốn Avoiding
Bitterness in Suffering, đồng tình với sự tế nhị mà ít người Công giáo đương đại
dám làm theo:

“Đôi khi người phụ nữ, nghĩ rằng Chúa Thánh Thần đang kêu gọi
họ phản kháng lại sự ngược đãi hoặc tố cáo những người chồng của mình, cảm thấy
mình phải phê phán những người phụ nữ bất hạnh trong hôn nhân khác, những người
chọn… con đường nương náu trong tình yêu của Đức Kitô và dâng lên nỗi đau khổ
vì chồng con và những ý hướng tốt đẹp khác. Đôi khi những nữ [chọn ở lại] sẽ bị
sự dữ dội của những phụ nữ hung hăng làm cho sợ hãi” 
(tr. 158).

Tôi tán thành với cách xử lý của Chervin trong đề tài nhạy cảm
này. Không một phụ nữ nào phải chịu sỉ nhục vì lựa chọn ở lại với người chồng
hay trung thành với lời thề hứa của mình. Việc công kích bằng cụm từ “sự ở lại
nhục nhã” thường giống như một sự bắt nạt, và nó không có chỗ đứng trong đời sống
Kitô giáo.

Bạn của tôi, tiến sĩ Hilary Towers từng lưu ý: “Giáo hội có vẻ đang thực sự phải vật lộn với
vấn đề liệu có nên tiếp tục lập trường về tình yêu để đòi hỏi sự chung thủy trọn
đời của tất cả – chứ không chỉ phần lớn – các cặp hôn phối”
. Cô ấy cho rằng
việc rời bỏ thập giá nặng nề trong hôn nhân “có
vẻ làm cho những người thân yêu của chúng ta cảm thấy hạnh phúc trở lại, do đó,
chúng ta khuyến khích họ”
 thực hiện điều đó. Về mặt mục vụ, cô nghĩ rằng
Giáo hội có vẻ quay lưng với việc
hướng tới sự tái hợp (quan niệm truyền thống của Giáo hội) và hướng đến việc tìm kiếm những cách thức
để miễn trừ cho các cặp đôi khỏi những nghĩa vụ mà họ thề hứa.

Xin nhắc lại vấn đề mà nhiều người còn chưa chắc chắn: Có còn ổn thỏa hay
không khi noi gương và bắt chước thánh Helena cùng những vị thánh nữ thời xưa
khác, những người mà đời sống và sự lựa chọn của họ có vẻ không phù hợp với tiếng
nói của nền văn hóa chúng ta? Tốt đẹp lắm chứ! Đức tin của chúng ta không thay
đổi. Nhân đức không thay đổi. Đức Kitô không bao giờ thay đổi. Tôn vinh thánh
Helena, vị bảo trợ cho những người phụ nữ đã ly hôn, vì sự kiên vững trong đức
tin của ngài sau khi bị bỏ rơi, vẫn còn và luôn luôn chính đáng. Cũng tương tự
như vậy đối với thánh Mônica và Rita, những vị bảo trợ của những người phối ngẫu
bị ngược đãi và những người gặp khủng hoảng hôn nhân; các ngài, nhờ sự thánh
thiện mình, đã yêu thương người chồng như cách mà Đức Kitô yêu thương chúng ta.

Chúng ta đang ở trong thời điểm mà nhiều người Công giáo
không còn tin rằng có thể sống theo giáo huấn của Giáo hội về hôn nhân, tính dục,
và sự chung thủy trọn đời. Nhưng thực ra là điều có thể. Đó là điều có thể thực
hiện, đã được thực hiện, và phải được
thực hiện nếu chúng ta muốn tránh cho một thế hệ nữa chịu sự đánh dấu của hỗn
loạn và tan vỡ nơi gia đình.

Tác giả: Leila
Miller
Grêgôriô Võ Trần Nhựt chuyển ngữ(gpquinhon.org 27.08.2021/ Catholic Answers)

nguồn: conggiao.info

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

For security, use of Google's reCAPTCHA service is required which is subject to the Google Privacy Policy and Terms of Use.

I agree to these terms.