Phải chăng Giáo Huấn Công Giáo về Ngừa Thai chỉ dành cho các cặp vợ chồng ?

Hỏi: Sự lên án việc ngừa thai của Giáo Hội Công Giáo có phải chỉ ràng buộc các cặp vợ chồng hay đó là một quy luật đạo đức phổ quát?

Đây là một câu hỏi về đạo đức sinh học được nêu lên bởi một độc
giả của Zenit và được giải đáp bởi các hội viên thuộc Tổ chức Văn hóa Sự Sống
(the Culture of Life Foundation)

E. Christian Brugger* trả lời:

Giáo huấn về ngừa thai chỉ có thể được hiểu đúng đắn trong bối cảnh của một
giáo huấn bao quát hơn của Hội Thánh về bản chất và những điều thiện hảo của
hôn nhân. Nhưng chính quy luật chống những hành vi ngừa thai, được giảng dạy và
bảo vệ từ thuở ban đầu của Giáo Hội, ràng buộc một cách phổ quát – theo ngôn
ngữ của thần học luân lý, semper et pro semper – mãi mãi và cho đến muôn đời,
không có một trường hợp ngoại trừ nào. Quy luật này chỉ ra một kiểu đặc thù về
hành vi tự ý lựa chọn, gọi là hành vi cố ý làm cho việc giao hợp tính dục không
thể truyền sinh được.

Giao hợp tính dục, theo truyền thống, là điều hợp pháp và tốt lành (và đối với
các Kitô hữu, còn đem lại ân sủng) khi và chỉ khi nào có tính hôn phối. Hôn
nhân là một sự thông hiệp nên một –xương- một- thịt của hai người với hai điều
thiện hảo mang tính xác định : sự hiệp nhất và sự hoàn bị của đôi phối ngẫu, và
việc sinh sản và giáo dục con cái. Việc giao hợp có tính hôn phối sẽ luôn luôn
tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn một- xương- một- thịt của tương quan hôn phối bằng
cách duy trì tính kết hiệp (unitive) và tính truyền sinh (procreative).

Các hành vi tính dục mà cố ý không đếm xỉa đến các điều thiện hảo về kết hiệp
và truyền sinh của hôn nhân thì không mang tính hôn phối và do đó là những hành
vi sai trái. Giao hợp giữa những bên không phải là vợ chồng thì vi phạm tính
thiện hảo kết hiệp, như tất cả những hành vi tính dục cưỡng bức đều vi phạm.
Những hành vi ngừa thai muốn chống lại điều thiện hảo truyền sinh, cho nên
chúng không mang tính hôn phối, cho dù xảy ra giữa đôi vợ chồng, và cũng sai
trái như thế. Những hành vi ấy sai trái chính bởi vì theo định nghĩa chúng dẫn
đến một ý muốn chống lại điều thiện hảo truyền sinh của hôn nhân. Cho tôi nhắc
lại : mọi giao hợp không mang tính hôn phối đều đã được chọn lựa một cách sai
trái, cả trong lẫn ngoài hôn nhân. Sự thông dâm là giao cấu giữa những người
không phải là vợ chồng. Hành vi thủ dâm thì không có tính kết hiệp . Hành vi
ngừa thai là không mang tính truyền sinh và không mang tính kết hiệp, đến mức
khi lọai bỏ ý nghĩa truyền sinh của giao hợp tính dục họ không thực hiện giữa
vợ chồng một sự kết hợp trọn vẹn nên một- xương- một- thịt.

Vì vậy, bất cứ khi nào một người nam và một người nữ , là vợ chồng hay không là
vợ chồng, thực hiện giao hợp tính dục, tin rằng họ sẽ hay họ có thể sinh ra một
sự sống mới của con người, và do đó, chấp nhận bất cứ hành vi nào, – trước,
đang khi, hay sau khi giao hợp – rõ ràng có ý như một sự chấm dứt hoặc một
phương cách để ngăn ngừa việc truyền sinh, thì họ vi phạm ý nghĩa truyền sinh
của giao hợp tính dục. Họ ngừa thai. Và những hành vi ngừa thai trong truyền
thống Công giáo luôn luôn bị coi là một việc xấu từ bản chất. (Phương cách chọn
lựa để làm cho việc giao hợp trở thành mất khả năng truyền sinh có tính bất
định đối với việc áp dụng quy luật.)

Nếu như hành vi ngừa thai là sai trái đối với các đôi vợ chồng, mà lại là hợp
pháp đối với những người không phải vợ chồng, thì hành vi đó sẽ không tự thân
là sai trái, không là một điều xấu nội tại, mà là điều xấu theo hoàn cảnh. Mặc
dù một số người Công giáo chủ trương như thế, lối nhìn này rõ ràng xem ra trái
nghịch với cả giáo lý truyền thống lẫn thần học truyền thống.

Nói theo giáo lý, Đức Gioan Phaolô II đã truyền dạy trong Thông điệp Veritatis
Splendor (1993) rằng “ việc ngừa thai ” tự thân là điều sai trái, qua đó ngài
ngụ ý rằng “việc chọn lựa loại hành vi này [ bởi đó “ hành vi vợ chồng bị cố ý
khiến trở thành không thể có thai”] không thể nào phù hợp với điều thiện hảo
của ý muốn của người thực hiện, với ơn người đó được mời gọi sống với Thiên
Chúa và hiệp thông với người lân cận của mình” (các số 52, 80).

Ngài đã truyền dạy không khác hơn điều vị tiền nhiệm của ngài, Đức Piô XI, đã
truyền dạy trong Thông điệp Casti Connubii (1930):“ Nhưng không có lý do nào,
dù nghiêm trọng đến đâu, nhờ đó có thể đề xướng bất cứ điều gì tự thân phản lại
tự nhiên mà lại có thể trở nên thích hợp với tự nhiên và là tốt lành về phương
diện luân lý. Cho nên, chính vì hành vi vợ chồng theo bản chất được an bài cơ
bản cho việc sinh con, nên những ai thực hiện hành vi đó mà cố tình vô hiệu hóa
năng lực và mục đích của hành vi ấy thì mắc tội phản lại tự nhiên và phạm một
hành động đáng hổ thẹn và tự nó là xấu xa.” (số 54).

Quả là đúng khi Đức Piô XII trong Huấn từ cho Các Nữ Hộ Sinh Ý (1951), Đức
Phaolô VI trong Thông điệp Humanae Vitae (các số 12, 14; 1968), và Đức Gioan-
Phaolô II trong Tông huấn Familiaris Consortio (số 32; 1981) tái xác nhận quy
chuẩn phủ định chống lại những hành vi ngừa thai, các ngài hành động như thế
trong bối cảnh của những tranh luận về đức khiết tịnh của bậc vợ chồng trong
đời sống hôn nhân . Nhưng, như tôi đã nói, đó chính là vì giáo huấn Công giáo
về ngừa thai không thể được hiểu thấu mà không có một sự hiểu biết về bản chất
và những điều thiện hảo của hôn nhân. Vì thế, việc học hỏi, nhận thức về hôn
nhân luôn luôn phải có – hoặc vì mục đích học thuật hoặc vì mục đính mục vụ. –
trong khuôn khổ học hỏi rộng lớn hơn về hôn nhân.

Nhưng không một giáo huấn nào được khẳng định theo cung cách nhằm loại trừ việc
áp dụng quy luật này cho các cặp không kết hôn. Đức Piô XII chẳng hạn, ngài dạy
rằng: “ Mọi toan tính của hoặc chồng hoặc vợ trong việc thực hiện hành vi vợ
chồng, hoặc trong diễn tiến của những hệ quả tự nhiên của hành vi ấy, mà nhắm
mục đích tước đoạt năng lực cố hữu của nó và ngăn cản việc tạo ra một sự sống
mới, đều là trái nghịch với luân lý.” Nhưng vì khi đó ngài ban huấn từ cho các
nữ hộ sinh, là những người đón nhận em bé cho các cặp vợ chồng, nên việc ngài
nhắc tới “người chồng hay người vợ” lại khiến cho ý nghĩa được hoàn hảo. Những
huấn dụ của ngài không nên được diễn giải như chỉ tuyệt đối hạn chế lãnh vực
cấm đoán đối với các người đã kết hôn.

Tương tự, khi Đức Gioan Phaolô II lên tiếng trong Tông huấn Familiaris
Consortio (FC) rằng “ngôn ngữ” về các hành vi ngừa thai giữa những người là vợ
chồng một cách khách quan mâu thuẫn với ngôn ngữ của việc trao hiến bản thân
giữa đôi vợ chồng, ngài có ý chỉ ra mối tai hại khách quan mà những hành vi này
gây ra trong khuôn khổ hôn nhân và cho những người phối ngẫu. Nhưng vì ngài
truyền giảng sau này trong Thông điệp Veritatis Splendor rằng hành vi ngừa thai
là cái xấu một cách nội tại, semper et pro semper, thì chúng ta biết là ngài
không có ý lấy giáo huấn của ngài trong FC để làm lắng dịu một cách cụ thể vấn
đề rộng lớn hơn về việc liệu những hành vi ngừa thai có là hợp pháp đối với
những ai chưa kết hôn không.

Tuy nhiên, nếu sự nghi ngờ vẫn còn nấn ná về phạm vi giáo huấn Công giáo có
thẩm quyền đối với việc ngừa thai, thì một lời yêu cầu trở về những cách diễn
đạt cũ xưa hơn chắc sẽ xua tan điều đó. Một cuốn sách về cải hối ở thế kỷ X do
một tu sĩ dòng Bênêđictô là Regino Prüm soạn đã bao gồm tất cả mọi người, kết
hôn và chưa kết hôn, trong phạm vi của lệnh cấm : “ Nếu bất cứ ai vì muốn thỏa
mãn tình dục hoặc do sự thù ghét cố tình mà làm điều gì đối với một người nam
hay một người nữ khiến cho những người đó không thể sinh con được, hoặc cho họ
uống thứ gì khiến cho người nam không thể có con hoặc người nữ không thể thụ
thai được, thì đều bị coi là phạm tội giết người” [1]. Bản văn này đã được đưa
vào bộ luật trong thế kỷ XIII dưới hình thức sắc lệnh Si aliquis. Bộ luật luân
lý trong đó có sắc lệnh này còn là một phần của bộ luật Công giáo Tây phương
cho mãi đến thế kỷ XX ( gần 700 năm!).

Truyền thống thần học cũng kiên định như vậy. Khi Thánh Tôma Aquinô diễn đạt
luận chứng của ngài chống lại các hành vi thuộc loại ngừa thai, ngài chỉ ra mọi
mưu toan cố ý khiến cho việc xuất tinh của người nam (“phóng tinh”) mất khả
năng truyền sinh. Thực ra, sự luận giải của ngài về những hành vi ngừa thai nằm
trong bối cảnh luận giải về vấn đề tại sao giao hợp giữa những người không kết
hôn lại là sai trái [2]. Đối với Thánh Tôma, loại hành vi này là contra naturam
(nghĩa là phản lại tự nhiên). Luận cứ contra naturam của Thánh Tôma chống lại
những hành vi ngừa thai thống lĩnh tài liệu thần học Công giáo trong vấn đề này
cho mãi tới giữa thế kỷ XX.

Từ các văn bản của giáo luật từ 700 năm trước đến nay, các thông điệp của các
vị giáo hoàng trong thế kỷ XX và những luận cứ thần học có ảnh hưởng nhất trong
lịch sử Công giáo đều diễn đạt quy luật chống lại những hành vi ngừa thai với
tính cách phổ quát, áp dụng đối với mọi hành vi của bất cứ ai cố ý làm cho hành
vi giao hợp tính dục trở nên vô sinh, và quan điểm cho rằng sự lên án của Giáo
hội chỉ áp dụng trong hôn nhân – và do đó không áp dụng cho (nghĩa là, những
hành vi này có thể là hợp pháp và thậm chí có tính bắt buộc đới với) những kẻ
thông dâm, những kẻ ngoại tình và những kẻ mại dâm — phải bị loại bỏ đi vì
không trung thành với giáo huấn truyền thống Công giáo.


Antôn Uông chuyển dịchnguồn: ubmvgiadinh.org/ Zenit

nguồn: conggiao.info

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

For security, use of Google's reCAPTCHA service is required which is subject to the Google Privacy Policy and Terms of Use.

I agree to these terms.