Tín Điều Về Mẹ

“Những lần Mẹ hiện ra” từ thế kỷ 19 là dấu hiệu thứ nhất chứng tỏ đây là thời của Mẹ Maria. Dấu hiệu thứ hai chứng tỏ đây là thời của Mẹ Maria, đó là, cũng từ thế kỷ 19 trở đi, ba tín điều về Mẹ Maria đã được Giáo Hôi chính thức tuyên tín. Trong khi đó, 18 thế kỷ trước, chỉ có một tín điều duy nhất về Mẹ là tín điều Mẹ Thiên Chúa được Giáo Hội tuyên tín vào năm 431 ở công đồng chung Êphêsô mà thôi.

Vào thời kỳ ấy, thời
công đồng Êphêsô, có một vị linh mục tên Anastasiô công khai chối bỏ thiên chức
Mẹ Thiên Chúa (Theotokos) của Mẹ, và chỉ công nhận Mẹ là Mẹ của Chúa Kitô
(Khristotokos).Chính Nestôriô là thượng phụ Constantinôpôli năm 428 cũng chấp
nhận như vậy, tức công nhận Chúa Kitô có hai Ngôi Vị, một thần linh và một nhân
loại. Dựa vào bức thư thứ hai trong ba bức thư của thánh Giáo Phụ Cyrilô
Alexandria gửi cho Nestôriô, các nghị phụ tham dự công đồng chung này, vào ngày
22-6-431, đã tuyên tín như sau:

“Không phải Ngôi Lời
đã từ trời xuống ở với một phàm nhân được Trinh Nữ Thánh sinh ra đầu tiên; mà
là, vì nên một với xác thể trong lòng (của Trinh Nữ Thánh), Ngôi Lời đã được
sinh ra theo xác thể, như là việc sinh ra theo xác thể của mình… Bởi thế,
(các giáo phụ) đã không ngại gọi Trinh Nữ Thánh là ‘Mẹ Thiên Chúa’ (Theotokos).
Điều này không có nghĩa là bản tính của Ngôi Lời hay Thiên Tính của Ngài đã
được bắt đầu hiện hữu từ Trinh Nữ Thánh, mà là, vì Thánh Thể được sinh động bởi
hồn thiêng, mà Ngôi Lời đã ngôi hiệp (kath’hupostasin) với chính mình, được
sinh ra bởi Người, nên Ngôi Lời đã được sinh ra theo xác thể” (TCF:148-149).

Và, cũng bắt đầu từ
đó, Giáo Hội đã dạy cho con cái mình cầu nguyện cùng Mẹ:

“Thánh Maria Đức Mẹ
Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.

Tuy nhiên, việc Giáo
Hội tuyên tín Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, một tín điều duy nhất trong suốt 18 thế kỷ
đầu của Giáo Hội, là một việc không thể nào không làm để chống lại những sai
lầm của lạc thuyết Nestôriô, một lạc thuyết đã tác hại ghê gớm đến đức tin và
phần rỗi đời đời của các tín hữu. Trong khi đó, từ bán thế kỷ thứ 19, trong
vòng có 110 năm (1954-1964), Giáo Hội đã tự cảm thấy, (chứ không phải vì ngoại
cảnh bắt buộc), đến lúc cần phải công bố thêm 3 tín điều về Mẹ nữa, đó là tín
điều Mẹ Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Lên Trời Cả Hồn Lẫn Xác và Mẹ Là Mẹ
Của Giáo Hội.

TÍN ĐIỀU MẸ VÔ NHIỄM
NGUYÊN TỘI.

Đức Giáo Hoàng Piô IX,
bằng trọng sắc Ineffabilis Deus, đã long trọng tuyên bố tín điều này vào ngày
8/12/1854, (sau đó hơn 3 năm, ngày 25-3-1858, chính Đức Mẹ đã công nhận tín
điều này khi hiện ra với chị thánh Bernadette tự xưng mình là “Đấng Đầu Thai Vô
Nhiễm Nguyên Tội”).

Với uy quyền của Chúa
chúng ta là Đức Giêsu Kitô, của hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, cũng như của
riêng Ta, Ta công bố, tuyên ngôn và xác nhận tín điều được mạc khải bởi Thiên
Chúa buộc mọi tín hữu phải tin vững vàng và trung kiên là “Rất Thánh Trinh Nữ
Maria, ngay từ giây phút đầu thai, nhờ đặc ân của Thiên Chúa toàn năng và công
nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì
vết của nguyên tội” (TCF:204).

TÍN ĐIỀU MẸ LÊN TRỜI
CẢ HỒN LẪN XÁC.

Qua tông hiến
Munificentissimus Deus, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã long trọng tuyên bố tín điều
này vào ngày lễ Các Thánh Nam Nữ, 1-11-1950.Phải chăng, như ở Lộ Đức, Đức Mẹ đã
hiện ra để xác nhận tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức Giáo Hoàng Piô IX công
bố thế nào, Mẹ cũng tỏ ra xác nhận tín điều Hồn Xác Lên Trời về Mẹ do Đức Thánh
Cha Piô XII công bố như vậy, khi cho ngài thấy bốn lần, vào những ngày 30 và 31
tháng 10 và ngày 1 và 8 tháng 11 năm 1950 (TWTAF3:284-287), hiện tượng mặt trời
nhẩy múa như ở Fatima ngày 13-10-1917 trước kia?

Đức Giáo Hoàng Piô XII
đã ban bố tín điều này như sau:

“Ta tuyên xưng, công
bố và xác nhận tín điều được Thiên Chúa mạc khải là Mẹ Thiên Chúa Vô Nhiễm
Nguyên Tội, Đức Maria trinh nguyên, khi thời gian sống tại thế hoàn tất, cả hồn
lẫn xác của Người đã được đưa về trời trong vinh quang thiên quốc” (TCF:207).

TUYÊN XƯNG MẸ LÀ MẸ
CỦA GIÁO HỘI.

Đức Giáo Hoàng Phaolô
VI, trong dịp kết thúc kỳ họp ba của công đồng chung Vaticanô II, cũng là dịp
hiến chế về Giáo Hội Lumen Gentium được công bố, trước mặt toàn thể các nghị
phụ của công đồng, đã chính thức tuyên bố:

“Ta mong muốn Mẹ Thiên
Chúa phải được cả thế giới Kitô hữu tôn vinh và khẩn cầu hơn nữa bằng tước hiệu
(Mẹ Giáo Hội) tuyệt dịu ngọt này” (CTFY:88).

Trong dịp chính thức
tuyên xưng Mẹ Maria là Mẹ của Giáo Hội này, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cũng lập
lại việc hiến dâng toàn thể thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ,
việc hiến dâng đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII thực hiện hai lần, một vào ngày
31-10-1942 và một vào ngày 7-7-1952.

Đức Giáo Hoàng Phaolô
VI đã lập lại việc hiến dâng này như sau:

“Ta đã quyết định gửi
một đại diện đến Fatima vào một ngày gần đây để mang Bông Hồng Bằng Vàng đến
Đền Thánh Fatima, nơi yêu qúi hơn bao giờ hết, chẳng những đối với nhân dân của
nước Bồ Đào Nha diễm phúc… mà còn được tín hữu trên khắp thế giới Công Giáo
nhận biết và tôn kính. Bằng việc làm này, Ta có ý muốn phú thác cả gia đình
nhân loại, với những hoạn nạn và âu lo của họ, với những ước vọng thâm sâu và
hy vọng tha thiết của họ, cho sự chăm sóc của Mẹ thiên đình” (CTFY:88).

Ngoài ra, trong Thời
Đại Maria này, Giáo Hội, qua Đức Giáo Hoàng Piô XII, cũng đã thực hiện hai việc
liên quan trực tiếp đến Đức Mẹ nữa, đó là việc ngài cho mừng lễ Trái Tim Đức Mẹ
trong toàn thể Giáo Hội hoàn vũ cũng như lập lễ Đức Mẹ Nữ Vương, và việc ngài
phong hiển thánh cho hai vị Thánh của Mẹ, thánh Louis Marie Grignion De Monfort
ngày 20/7/1947, và thánh Catarina Labuarê ngày 27/7/1947.

Lễ Trái Tim Đức Mẹ:

Thật ra, theo văn thư
Acta Apostolicae Sedis của thánh bộ Lễ Nghi ban hành ngày 4/5/1944, lễ Trái Tim
Đức Mẹ đã được bắt đầu mừng từ thời Trung Cổ và được Giáo Hội chấp nhận vào đầu
thế kỷ thứ 19. Đức Giáo Hoàng Piô VII (1800-1823) đã cho phép các giáo phận hay
dòng tu nào xin mừng lễ Khiết Tâm Mẹ sẽ được cử hành vào ngày Chúa Nhật sau
tuần bát nhật Lễ Đức Mẹ Mông Triệu. Sau đó, Lễ Trái Tim Mẹ được lan rộng khắp
nơi, và Đức Giáo Hoàng Piô IX (1848-1878) đã chính thức cho vào niên lịch phụng
vụ hằng năm của Giáo Hội.

Cho đến ngày
24/10/1940, chị Lucia đã viết thơ trình lên Đức Giáo Hoàng Piô XII điều “yêu
cầu” của Mẹ liên quan đến việc Mẹ sẽ làm cho nước Nga trở lại, và cuối thơ chị
có xin Đức Giáo Hoàng cho mừng chung trong Giáo Hội hoàn vũ lễ Trái Tim Vô Nhiễm
Nguyên Tội Mẹ như là một trong những lễ chính.

Phần Đức Giáo Hoàng Piô
XII, cũng trong văn thư của thánh bộ Lễ Nghi trên đây, “để ghi nhớ cuộc hiến
dâng này, (cuộc hiến dâng Giáo Hội hoàn vũ và cả loài người cho Trái Tim Vô
Nhiễm Nguyên Tội Mẹ mà Đức Giáo Hoàng đã thực hiện ngày 31/10/1942), Ngài đã
quyết định cho Giáo Hội hoàn vũ mừng lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Lễ này
sẽ được cử hành mỗi năm vào ngày 22 tháng 8, thay ngày bát nhật lễ Đức Mẹ Mông
Triệu, với bậc lễ hạng nhì…” (TWTAF3:82-83).

Lễ Mẹ Nữ Vương:

Lễ Mẹ Nữ Vương được
Đức Giáo Hoàng Piô XII lập trong Năm Thánh Mẫu, vào ngày lễ Đức Mẹ Thiên Chúa
11/10/1954. Qua bức thông điệp Ad Coeli Reginam, Đức Giáo Hoàng nhắc lại việc
đội triều thiên cho Mẹ năm 1946 và quyết định:

“Ta ban hành và thiết
lập Lễ Maria Nữ Vương, được mừng chung Giáo Hội hằng năm vào ngày 31/5”.

Cũng trong thông điệp
này, Đức Giáo Hoàng còn đề cập đến:

“Việc hiến dâng loài
người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ phải được lập lại trong ngày này…
Với niềm tin tưởng hơn trước, mọi người hãy đến với ngai tòa tình thương và ân
sủng của Nữ Vương và Từ Mẫu để xin trợ giúp trong cơn quẫn bách, ánh sáng trong
lúc tối đen, và sức mạnh trong lúc đau thương khóc lóc…” (TWTAF3:395).

Sau Công Đồng Chung
Vaticanô II, theo tinh thần canh tân phụng vụ, một số Lễ kính Đức Mẹ cũng được
thay đổi, trong đó có lễ Trái Tim Mẹ và lễ Mẹ Nữ Vương. Lễ Mẹ Nữ Vương được dời
xuống ngày 22/8 thay vì 31/5 hằng năm, và lễ Trái Tim Mẹ được dời lên ngày Thứ
Bảy ngay sát Thứ Sáu lễ Thánh Tâm Chúa trong tuần lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa.

Thánh Louis Marie
Grignion De Monfort (1673-1716)

Thánh nhân là vị thánh
lập hai dòng tu cho Giáo Hội, một nữ và một nam. Dòng nữ là dòng Nữ Tử Đấng
Khôn Ngoan, được lập năm “3, và dòng nam là dòng Thừa Sai Mẹ Maria (cũng gọi là
dòng các Linh Mục Và Huynh Đệ Thánh Monfort). Ngài cũng là tác giả của tác phẩm
thời danh Thành Thật Sùng Kính Mẹ Maria, một tác phẩm mà chính ngài đã tiên
đoán về số phận của nó: “Tôi thấy trước một cách r ràng là những con mãnh thú
sẽ dùng nanh vuốt qủi quyệt của chúng để sâu xé bản văn nhỏ bé này… hay, ít
là dấu nó đi trong bóng tối vắng lặng nào đó không lộ ra được” (TDTM,114). Quả
nhiên, mãi đến năm 1842, cuốn sách này mới được một linh mục dòng của ngài tình
cờ tìm thấy trong một thùng sách cũ ở tu viện Laurent- sur-Sèvre.

Đức Giáo Hoàng Piô XII
đã nói về ngài khi phong thánh cho ngài như sau: “Sùng Kính Mẹ Maria là sức
mạnh mãnh liệt trong công cuộc tông đồ của ngài và bí mật tuyệt diệu nhất của
ngài trong việc lôi kéo các linh hồn và ban Chúa Giêsu cho họ” (TDTM:v).

Thánh Catarina Labuarê
(1806-1876)

Nữ Thánh Nhân là chị
nữ tu dòng Nữ Tử Bác Ái thánh Vinh-Sơn Phao-Lô, được Đức Mẹ hiện ra vào năm
1830 và trao cho 3 sứ mệnh, như Đức Giáo Hoàng Piô XII đã nói về chị trong dịp
phong thánh cho chị ngày 27/7/1947, đó là: “Phục hồi lòng sốt sắng đã bị nguội
lạnh trong hai hội dòng bác ái của chị; nhận chìm toàn thể thế giới vào trận
lụt đầy những mẫu ảnh kim loại nho nhỏ là những gì chứa đựng các ơn xót thương
của Đấng Vô Nhiễm Tội ban cho cả hồn lẫn xác; lập một hội đạo đức ‘Con Cái Mẹ
Maria’ để bảo toàn và thánh hóa giới phụ nữ trẻ” (TWTAF3:108).

Hai Á Thánh Thiếu Nhi
Fatima Phanxicô và Giaxinta Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong Chân Phước
cho Hai Thiếu Nhi Fatima là Phanxicô và Giaxinta ngày 13/5/2000.

Những tín điều về Mẹ
Maria gồm có: tín điều Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa, tín điều Mẹ Maria Trọn Đời
Đồng Trinh, tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, tín điều Mẹ Maria
Mông Triệu Cả Hồn Lẫn Xác, và tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội. Để có một cái
nhìn tổng quát và đầy đủ các tín điều hay tước hiệu về Mẹ Maria, xin trưng dẫn
toàn bộ giáo huấn của Giáo Hội theo thứ tự dưới đây.

Tín điều Mẹ Maria Là
Mẹ Thiên Chúa
 được Công Đồng Chung Ephêsô tuyên
tín năm 431 là:

“Tuyệt thông cho những
ai không tuyên xưng rằng Đấng Emmanuel thực sự là Thiên Chúa, và bởi thế, Đức
Trinh Nữ là Mẹ của Thiên Chúa (theotokos) (vì Mẹ đã hạ sinh Ngôi Lời Thiên Chúa
hóa thành nhục thể theo xác thịt)”.

(DS 252 hay “The
Christian Faith” trang 149)

Tín điều Mẹ Maria Trọn
Đời Đồng Trinh
 được Công Đồng Latêran tuyên tín
năm 649, như sau:

“Khốn cho những ai
không theo các vị Nghị Phụ thánh đức tuyên xưng một cách chân thực và xác đáng
rằng Đức Maria, trinh nguyên và vô nhiễm, là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ đã thực sự
thụ thai chính Thiên Chúa Ngôi Lời, Đấng được Thiên Chúa Ngôi Cha hạ sinh trước
các kỳ thời, bởi Chúa Thánh Thần mà không cần đến hạt giống loài người, và đã
sinh ra Người hoàn toàn không bị hư hại gì, tình trạng đồng trinh của Mẹ sau
khi sinh con cũng không hề bị sứt mẻ”.

(DS 503 hay “The
Christian Faith”, như trên, trang 166)

Tín điều Mẹ Maria Đầu
Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội 
được Đức Piô IX long
trọng tuyên bố bằng sắc lệnh “Ineffabilis Deus” vào ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm,
8/12/1854, rằng:

“Để vinh danh Ba Ngôi
thánh thiện duy nhất, để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, để phấn
khởi đức tin Công Giáo và phát triển Kitô Giáo; bằng quyền bính của Chúa Giêsu
Kitô, của các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi
tuyên xưng, công bố và xác nhận rằng: tín lý cho rằng rất Thánh Nữ Trinh Maria,
ngay từ giây phút đầu thai của mình, nhờ ơn sủng cùng với đặc ân chuyên nhất
của Thiên Chúa toàn năng, và dựa vào công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu
Chuộc loài người, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì vết của nguyên tội, là
điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế, tất cả mọi tín hữu đều phải mạnh mẽ và
liên lỉ tin tưởng”.

(DS 2803 hay “The
Christian Faith”, như trên, trang 204)

Tín điều Mẹ Maria Mông
Triệu Cả Hồn Lẫn Xác
 được Đức Piô XII long trọng tuyên
bố bằng tông hiến “Munificentissimus Deus” ngày Lễ Kính Các Thánh, 1/11/1950,
như sau:

“Để tôn vinh Thiên
Chúa toàn năng là Đấng đã ban muôn vàn ơn lành đặc biệt của Ngài trên Trinh Nữ
Maria, để tôn kính Con Ngài là Vua muôn đời, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự
chết, để Người Mẹ cao cả của Người được hiển vinh hơn, và để toàn thể Giáo Hội
hân hoan phấn khởi; bằng quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh tông đồ
Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi công bố, tuyên xưng và xác
nhận như là một tín điều được Thiên Chúa mạc khải: Người Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
của Thiên Chúa, Đức Maria Trinh Nguyên, sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế của
mình, đã được mang lên hưởng vinh quang trên trời cả thân xác lẫn linh hồn”.

(DS 3903 hay “The
Christian Faith”, như trên, trang 207)

Tước hiệu Mẹ Maria Là
Mẹ Giáo Hội 
được Đức Phaolô VI long trọng tuyên bố
ngay trong buổi họp Công Đồng Chung Vaticanô II để ban hành Hiến Chế Tín Lý về
Bản Chất Giáo Hội Lumen Gentium (Anh Sáng Muôn Dân) vào ngày 21/11/1964, như
sau:

“Khi chúng ta xét đến
những liên hệ chặt chẽ gắn bó Đức Maria và Giáo Hội, như những mối liên hệ này
đã được diễn đạt hết sức rõ ràng trong Hiến Chế Công Đồng này, những mối liên
hệ khiến chúng ta phán quyết, trong giây phút rất long trọng này đây, đặc biệt
rất thích đáng để làm mãn nguyện một ước vọng, một ước vọng chúng tôi bộc lộ ở
vào lúc kết thúc buổi họp cuối này, và cũng là ước vọng của rất nhiều vị Nghị
Phụ, khẩn khoản yêu cầu là trong Công Đồng đây, vai trò từ mẫu mà Đức Thánh
Trinh Nữ Maria thực hiện đối với dân Kitô Giáo cần phải được công bố bằng những
từ ngữ rõ ràng. Vì lý do này, chúng tôi thấy rằng, trong cuộc họp công khai
này, chúng tôi phải chính thức công bố tước hiệu mà Đức Trinh Nữ Maria cần được
tôn kính, tước hiệu đã được đệ xin từ nhiều nơi trong Giáo Hội hoàn vũ, và cũng
là một tước hiệu đối với chúng tôi đáng chấp nhận và thỏa lòng cách đặc biệt;
vì tước hiệu này mang lại một cách xác thực tuyệt vời vị trí hiển nhiên xứng
hợp với Mẹ Thiên Chúa trong Giáo Hội được Công Đồng này đã công nhận. Bởi thế,
để vinh danh Đức Trinh Nữ và để chúng ta được an ủi, chúng tôi tuyên bố Rất
Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội, tức là Mẹ của toàn thể Dân Kitô Giáo, cả giáo dân
lẫn mục tử, thành phần gọi Người là một Người Mẹ rất yêu dấu; và vì thế chúng
tôi truyền cho toàn thể Dân Kitô Giáo hãy dâng lên Mẹ Thiên Chúa một niềm kính
tôn hơn nữa và hãy nguyện cầu cùng Người bằng tên gọi rất ngọt ngào này”.

(trích dịch từ
“Theotokos”, by Michael O’Carroll, C.S.Sp, Michael Glazier, Inc., third revised
edition, 1988, trang 251)

Nếu căn cứ vào kiểu
cách Đức Phaolô VI công bố tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội này thì có khác gì
với lần Đức Piô IX công bố tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội và
lần Đức Piô XII công bố tín điều Mẹ Maria Lên Trời Cả Hồn Lẫn Xác. Vì Đức
Phaolô VI cũng dùng đến quyền bính tối cao của mình, chẳng những “công bố Rất
Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội” mà còn “truyền cho toàn thể Dân Kitô Giáo” phải
“kính tôn” Mẹ và “cầu nguyện” với Mẹ “bằng tên gọi rất ngọt ngào này” nữa. Và
việc Đức Phaolô VI đã “công bố” và “truyền” làm như thế không phải chỉ bằng một
văn kiện, mà là bằng lời nói sống động ngay trước mặt toàn thể hàng giáo phẩm
thế giới đang tham dự Công Đồng Chung bấy giờ, thành phần đại diện cho toàn thể
Dân Chúa. Nếu “Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội” được thẩm quyền tối cao của Giáo
Hội công bố một cách long trọng chưa từng có như thế, thì điều công bố này lại
có thể sai lầm được chăng, và có thể phủ nhận và không đáng tin chăng? Do đó,
“Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội”, theo cách thức và ngôn từ công bố của Đức
Phaolô VI, cũng có thể mang một tính chất quan trọng và thiết yếu như các Tín
Điều Thánh Mẫu chính thức khác.

Bản Tuyên Xưng Đức Tin
do Thánh Bộ Phụ Trách Tín Lý Đức Tin phác họa và phổ biến ngày 9/1/1989 cho các
vị có trách nhiệm liên quan đến các chân lý đức tin và luân lý, có đoạn thứ hai
về việc:

“Tôi phải lấy cả ý
muốn lẫn trí khôn thuận phục các giáo huấn do Giáo Hoàng hay Giám Mục Đoàn công
bố khi các ngài thực hành Huấn Quyền chính thức của mình, cho dù các ngài không
có ý công bố những giáo huấn này bằng một hành động dứt khoát” (đoạn 2, Tông
Thư Motu Proprio: “Ad Tuendam Fidem” của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, L’Osservatore
Romano, bản Anh Ngữ, số 28/1550, 15/7/1998).

Nếu căn cứ vào đoạn
thứ hai của Bản Tuyên Xưng trên đây, thì việc Đức Giáo Hoàng Phaolô VI công bố
tước hiệu Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội, một tước hiệu nói lên chính thực tại của vai
trò Mẹ Maria thực sự là Mẹ của Giáo Hội, cũng là một đối tượng của Đức Tin, như
các Tín Điều Thánh Mẫu khác.

Giáo lý Mẹ Maria Đồng
Công Cứu Chuộc
, tuy chưa được Giáo Hội chính thức
long trọng tuyên bố như các tín điều trên đây, tuy nhiên, Đức Gioan Phaolô II
cũng đã công nhận và trình bày vai trò cộng tác của Mẹ trong dự án cứu độ của
Thiên Chúa cũng như trong công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô, qua bài giáo lý
(trong loạt 70 bài vào thời khoảng 6/9/1995-12/11/1997) về Mẹ, hôm Thứ Tư ngày
9/4/1997, như sau:

“Từ ngữ ‘cộng tác
viên’ áp dụng cho Mẹ Maria đòi có một ý nghĩa đặc biệt. Việc các tín hữu cộng
tác trong ơn cứu chuộc xẩy ra sau biến cố Canvê, một biến cố sinh hoa kết trái
do nỗ lực nguyện cầu và hy sinh của họ. Còn Mẹ Maria đã cộng tác trong chính
biến cố này và với vai trò làm mẹ; bởi thế, việc cộng tác của Mẹ bao hàm toàn
thể công cuộc cứu độ của Chúa Kitô. Chỉ có một mình Mẹ đã được liên kết vào
hiến tế cứu chuộc bằng cách này, một hiến tế mang ơn cứu độ cho toàn thể nhân
loại. Hiệp nhất với Chúa Kitô và tùy thuộc vào Người, Mẹ đã hợp tác để chiếm
lấy ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Vai trò làm cộng sự viên của Đức Trinh Nữ
bắt nguồn từ thiên mẫu chức của Mẹ… Việc cộng tác đặc thù của Mẹ Maria vào dự
án cứu độ có một ý nghĩa như thế nào? Điều này cần phải tìm thấy nơi ý định đặc
biệt của Thiên Chúa đối với Mẹ Chúa Cứu Thế, nhân vật mà vào hai trường hợp,
một ở tiệc cưới Cana và một ở chân Thập Giá, Chúa Giêsu đã ngỏ lời như với một
‘Bà’ (x.Jn.2:4;19:26). Mẹ Maria đã liên kết trong công cuộc cứu chuộc như một
người đàn bà. Tạo dựng nên con người ‘có nam có nữ’ (x.Gn.1:27), Chúa cũng muốn
đặt một Tân Evà bên cạnh một Tân Adong trong việc cứu độ. Cha mẹ đầu tiên của
chúng ta đã chọn con đường tội lỗi như là một cặp vợ chồng; Con Thiên Chúa và
việc cộng tác của Mẹ Người cũng có nhau để tái thiết lập giòng giống loài người
theo phẩm giá nguyên thủy của nó… Công Đồng đã nghĩ đến vấn đề tín lý này và
nhận làm của mình khi nhấn mạnh đến việc đóng góp của Đức Trinh Nữ chẳng những
vào việc hạ sinh Đấng Cứu Thế, mà còn vào sự sống của Nhiệm Thể Người nữa qua
các thế hệ cho đến lúc ‘cánh chung’: nơi Giáo Hội Mẹ Maria ‘đã cộng tác’
(x.Lumen Gentium, đoạn 63) và Mẹ đã ‘cộng tác’ trong công cuộc cứu độ (cùng
nguồn, đoạn 53)… Hơn nữa, Công Đồng Chung Vaticanô II trình bày Mẹ Maria
chẳng những như ‘Mẹ của Đấng Cứu Chuộc thần linh’, mà còn là ‘cộng tác viên
quảng đại một cách đặc biệt’, Mẹ ‘đã cộng tác bằng đức tuân phục của Mẹ, bằng
đức tin, đức cậy và đức mến bừng cháy của Mẹ trong công cuộc của Chúa Cứu Thế’.
Công Đồng còn nhắc lại rằng hoa trái cao qúi của việc cộng tác này là thiên
chức làm mẹ phổ quát của Mẹ: ‘Vì lý do này, Mẹ là mẹ của chúng ta theo trật tự
ân sủng’”

(L’Osservatore Romano,
bản Anh Ngữ, số 16/1487, 16-4-1997, trang 7)

Đã có 500 vị giám mục,
40 vị hồng y và mấy triệu tín hữu, trong đó có Mẹ Têrêsa Calcutta, đồng ký tên
đệ trình Đức Giáo Hoàng để xin ngài công bố tín điều Mẹ Maria Là Đấng Đồng Công
Cứu Chuộc, Là Đấng Trung Gian An Sủng và Là Đấng Biện Hộ Cho Dân Chúa. Nếu Biến
Cố Paris và Lộ Đức liên quan đến tín điều Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội thì tước
hiệu và tác dụng thần năng vô địch của tước hiệu “Ta là Đức Mẹ Mân Côi” trong
Biến Cố Fatima cũng rất có thể sẽ liên quan đến tín điều Mẹ Maria Đồng Công Cứu
Chuộc. Biết đâu việc công bố Tín Điều Thánh Mẫu cuối cùng này nằm ở trong Bí
Mật Fatima phần thứ ba, phần chỉ có Đức Giáo Hoàng được đọc, tức phần thuộc về
phần nhiệm của riêng ngài, nên không một vị giáo hoàng nào (Gioan XXIII, Phaolô
VI và Gioan Phaolô II) sau khi xem xong đã cảm thấy cần phải công bố nội dung
của nó.

Trong năm tín điều
này, hai tín điều đầu được Giáo Hội tuyên tín cách nhau 118 năm, còn ba tín
điều tiếp theo lại được thẩm quyền Giáo Hoàng, chỉ trong thời khoảng 110 năm.
Sở dĩ ba tín điều Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời và Mẹ
Maria Là Mẹ Giáo Hội là “dấu chỉ thời đại” cho Thời Điểm Maria là vì, so với hai
tín điều đầu, Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh, Giáo
Hội chỉ tuyên tín khi có lạc giáo mà thôi, trong khi ba tín điều sau là do Giáo
Hội tự động “nhận biết và yêu mến Mẹ”.

Chẳng hạn như tín điều
Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa được tuyên tín là vì lạc thuyết Lưỡng Ngôi, một lạc
thuyết được khai triển thêm bởi vị thượng phụ giáo chủ (từ năm 428) ở Antiôkia
là Nestôriô (?-450), thành lạc thuyết Nestorianism, chủ trương Mẹ Maria chỉ là
Mẹ của Đức Kitô (khristotokos) mà thôi, chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa
(theotokos), vì theo Nestoriô, Đức Kitô là một con người được kết hợp với thần
tính của Ngôi Lời Thiên Chúa, và Ngôi Lời Thiên Chúa ở nơi Đức Kitô “như ở
trong một đền thờ”.

Trường hợp tín điều Mẹ
Maria Trọn Đời Đồng Trinh cũng thế, Giáo Hội tuyên tín vào dịp phi bác lạc
thuyết Nhất Ý (Monothelitism), một lạc thuyết biến thiên từ lạc thuyết Nhất
Tính (Monophysitism) nơi Chúa Giêsu Kitô. Theo lạc thuyết Nhất Tính, như
Eutyches (378-454), một đan sĩ ở Contantinôpôli đã chấp nhận và hết mình ủng
hộ, chủ trương rằng nhân tính của Chúa Giêsu Kitô bị tiêu biến trong thần tính
của Người khi hiệp nhất với thần tính, do đó, nơi Người chỉ còn lại một bản
tính duy nhất. Còn theo lạc thuyết Nhất Ý, do vị thượng phụ giáo chủ
Contantinôpôli (610-638 AD) là Sergius chủ trương, với mục đích nhằm tái hợp
các giáo hội đang bị phân rẽ vì lạc thuyết Nhất Tính, thì ông công nhận Chúa
Giêsu Kitô có cả hai bản tính, thần tính và nhân tính, tuy nhiên, ông lại cho
rằng, nơi Người chỉ có một hành động duy nhất (mono-energism) và chỉ có một ý
muốn duy nhất (monothelitism). Nếu nơi Chúa Giêsu Kitô chỉ có một hành động và
một ý muốn duy nhất như Sergius quan niệm như thế, thì ông vẫn mặc nhiên cho
rằng Người chỉ có duy một bản tính chứ không phải có hai bản tính. Trong bản
phi bác lạc thuyết Nhất Ý của Sergius này, Công Đồng Lateranô năm 649 đã dành
riêng khoản thứ 3 (trong 16 khoản), một khoản liên quan trực tiếp đến tín điều
Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh như đã được trích dẫn trên đây.

Trong khi hai Tín Điều
Thánh Mẫu đầu tiên là tín điều Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa và tín điều Mẹ Maria
Trọn Đời Đồng Trinh được Giáo Hội tuyên tín chỉ vì có trường hợp lạc thuyết để
bảo vệ Đức Tin Tông Truyền của Giáo Hội, bằng những thành ngữ nghiêm trọng
“tuyệt thông cho những ai” hay “khốn cho những ai”, thì ba Tín Điều Thánh Mẫu
còn lại là tín điều Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời và
Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội lại được Giáo Hội tự động công bố như chỉ để tỏ ra
“nhận biết và yêu mến Mẹ”, được diễn tả qua các thành ngữ “để tôn kính và hiển
danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa”, hay “để Người Mẹ cao cả của Người được hiển vinh
hơn” hoặc “để vinh danh Đức Trinh Nữ”, đúng như lời tiên đoán của thánh Louis
Grignion de Montfort đã được nhắc đến từ đầu:

“Vào lần đến lần thứ
hai của Chúa Giêsu Kitô, Mẹ Maria phải được Thánh Linh làm cho nhận biết và tỏ
hiện, để qua Mẹ, Chúa Giêsu Kitô cũng được nhận biết, mến yêu và phục vụ”.

Như thế, Thời Điểm
Maria, đúng như Mẹ đã tiết lộ ở Bí Mật Fatima phần thứ hai, là thời điểm “Thiên
Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế
giới”, tức đối với thành phần con cái cưng yêu của Mẹ, như Mẹ đã nói về thân
phận của riêng thiếu nhi Lucia trong lần hiện ra thứ hai, 13/6/1917, là Thời
Điểm “Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến”.

Cao
Tấn Tĩnh

nguồn: conggiao.info

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

For security, use of Google's reCAPTCHA service is required which is subject to the Google Privacy Policy and Terms of Use.

I agree to these terms.